Sản xuất “sạch” tạo “đòn bẩy” cho nông sản vươn xa

01/03/2018 - 09:18

Năm 2017 khép lại với những con số ấn tượng của xuất khẩu nông - thủy sản Việt Nam. Điểm lại, nhiều người vẫn ấn tượng với lô vú sữa đầu tiên của một công ty tại Tiền Giang xuất khẩu vào thị trường Mỹ những ngày cuối năm 2017. Nói ấn tượng bởi Việt Nam có lợi thế trồng cây ăn trái rất lớn nhưng lại mất gần “10 năm làm hồ sơ” để tiếp cận được thị trường Mỹ. Số lượng nông sản lớn là một chuyện, chuyện được khách hàng tín nhiệm tiêu thụ mới là chuyện sống còn của nông sản trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay.

A A

Nông dân trồng lúa thơm đang thu được lợi nhuận cao.

Sản xuất “xanh” để bảo vệ môi trường

Hàng chục năm qua, ĐBSCL được xem là vựa lúa, vựa thủy sản, vựa trái cây, đảm trách an ninh lương thực và cung ứng nguồn nguyên liệu dồi dào cho xuất khẩu. Nhìn lại bước chuyển của sản xuất nông nghiệp: Từ thiếu đói, rồi tự túc đủ ăn đến xuất khẩu là một hành trình gian nan để Việt Nam trở thành một cường quốc xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản.

Xuất khẩu nông - thủy sản hàng năm mang về hàng chục tỉ USD. Thử đặt câu hỏi: Vựa nông sản miền Tây có đánh đổi điều gì khi mang về ngần ấy ngoại tệ? Câu trả lời là có: đó là môi trường! “Sản xuất nông nghiệp ĐBSCL giờ có nhiều dấu hiệu không còn xanh mà đã ngấm mình trong phân bón và thuốc hóa học”, GS, TS Võ Tòng Xuân cảnh báo. Đây là cái giá quá đắt mà chúng ta phải đánh đổi. Còn nhớ sau năm 1975, khi nông dân ĐBSCL chỉ sản xuất lúa mùa, 1 năm làm 1 vụ. Hầu như rất ít đụng đến thuốc trừ sâu. Ngày ấy, nông dân đi ruộng có thể cầm nón lá thoải mái đến lung bàu múc nước uống “giải khát” - vì môi trường nước rất sạch. Giờ thì không ai dám làm điều đó - vì rất nguy hiểm, bởi nguồn nước đã bị “vấy bẩn” bởi thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học xâm nhập vào nguồn nước khi nông dân lạm dụng. Đây là những nguy cơ tiềm ẩn cho rủi ro hàng xuất khẩu. Thực tế, không ít lô hàng xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã bị khách hàng từ chối vì dư lượng thuốc bảo vệ thực vật!

Một nhà khoa học đã cảnh báo: Hiện nay, nông dân như đứng trước “ma trận” vật tư nông nghiệp. Họ lúng túng không biết nghe khuyến nông nhà nước hay công ty!? Không ít người dân chỉ biết nghe ông gần nhất - gần nhất là đại lý vật tư nông nghiệp. Gần như đại lý đưa gì xài nấy (các đại lý vật tư thường bán chịu, nông dân thường phải chiều theo ý họ). Đây là nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa nông sản. Điểm lại một vài vấn đề để thấy rằng, thực tế sản xuất nông nghiệp còn rất nhiều thách thức.

Chính phủ đã có chủ trương: ĐBSCL phải chuyển từ “tư duy sản xuất nông nghiệp” sang “tư duy kinh tế nông nghiệp”. Thế nhưng chúng ta phải chuyển như thế nào để chạm đến suy nghĩ của hàng triệu nông dân? “Nếu cứ quanh quẩn diễn đàn học thuật thì không ăn thua. Thay đổi là phải thay đổi của nông dân. Một sự viện trợ sẽ không trọn vẹn ý nghĩa nếu người dân không thay đổi tư duy sản xuất”, ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, nhận định.

Những ngày đầu năm 2018, anh Võ Văn Tiếng, nông dân xã Thường Thới Tiền, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, cần mẫn đi thăm đồng. Đây là năm thứ 2 anh trồng lúa hữu cơ. Với 40ha đất trồng lúa, hơn 2 năm nay, anh Tiếng đã bỏ lúa vụ 3, thay bằng nuôi vịt. Cứ 10ha đất trồng lúa, anh đào 1 ao rộng khoảng 5.000m2, sâu 3m để chứa nước lũ và thả cá.

Mùa lũ, anh đón nước vào ruộng để lấy phù sa; mùa khô, lượng nước sạch, giàu dinh dưỡng trong ao được bơm vào ruộng. Đất được nghỉ và làm giàu nhờ đón lượng phù sa từ sông trong mùa lũ, từ ao trong mùa khô. 40ha lúa của anh Tiếng gần như không tốn chi phí cho phân bón hay thuốc bảo vệ thực vật. “Mình nghĩ, quê mình là quê lúa của cả nước, người dân trồng lúa thì nhiều nhưng mà vẫn nghèo, vì sản phẩm tạo ra không có chất lượng. Lượng hóa học quá nhiều nên sản phẩm có thể không an toàn. Hệ lụy có thể gây mất cân bằng sinh thái môi trường. Ông bà xưa làm lúa không có phân, thuốc; mặc dù năng suất không cao, nhưng bù lại chất lượng tốt. Mình học hỏi làm theo…”, anh Tiếng tâm sự về lựa chọn sản xuất lúa hữu cơ.

Trồng lúa không thuốc trừ sâu, không phân hóa học, chàng thanh niên 9X mang dáng rặt ri nông dân Võ Văn Tiếng đã trồng lúa theo cách ông cha để giữ nguyên giá trị và chất lượng hạt gạo. Đó là việc tận dụng thiên địch để trừ sâu. Dù năng suất chỉ khoảng 4-5 tấn/ha, tức chỉ hơn 50% so với canh tác thông thường, nhưng bù lại giá bán cao gấp đôi so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường và lúc nào nguồn cung cũng không đủ cầu. Từ đó, tạo nên thương hiệu gạo hữu cơ của nông dân Võ Văn Tiếng.

Thay đổi tư duy sản xuất

 Nông sản “ngon - sạch” đâu chỉ là tiêu chí của khách hàng nước ngoài! Ngay thị trường Việt Nam, khách hàng cũng đã bắt đầu “khó tính”. Hàng loạt điểm bán nông sản “sạch”, nông sản hữu cơ ra đời. Thị trường TP.HCM cũng bắt đầu kiểm soát nghiêm ngặt chất lượng thịt heo theo chuỗi sản xuất, truy xuất nguồn gốc. Đây là một xu hướng tất yếu khi người dân quan tâm đến chất lượng cuộc sống, chú trọng đến chất lượng hàng hóa nông sản. Trở lại câu chuyện lô vú sữa đầu tiên của Tiền Giang xuất khẩu vào thị trường Mỹ sau 10 năm đàm phán là một bước tiếp nối quan trọng của xuất khẩu nông sản Việt Nam. Cần nói thêm, đến thời điểm này: Việt Nam là nước đầu tiên và duy nhất được cấp phép xuất khẩu vú sữa tươi vào Mỹ.

Như vậy, đến nay Việt Nam đã có 5 loại trái cây xuất khẩu vào thị trường Mỹ: thanh long, nhãn, chôm chôm, vải và vú sữa. Tiền Giang có khoảng 74.000ha trồng cây ăn trái, sản lượng khoảng 1,4 triệu tấn/năm. Trong đó, nông dân trồng 1.100ha vú sữa. Lâu nay vú sữa lò rèn Vĩnh Kim là một đặc sản có nhiều lợi thế cạnh tranh. Cả nông dân và ngành nông nghiệp đã dày công áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, đạt chứng nhận GlobalGAP từ 10 năm trước.

Để thâm nhập vào thị trường Mỹ, phía công ty xuất khẩu vú sữa đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng chuyên nghiệp; đồng thời hợp tác chặt với nông dân Tiền Giang xây dựng vùng nguyên liệu, định vị tọa độ để đăng ký mã số vùng trồng, thống kê sản lượng, bao trái… Đây là nền tảng cơ bản để vú sữa “thông quan qua cửa kiểm dịch”.

Sau hàng chục năm xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu nông sản mang tầm chiến lược quốc gia như: gạo, tôm và cá tra đã và đang thâm nhập vào thị trường của hơn 100 quốc gia trên thế giới. Song sự cạnh tranh cũng ngày càng khốc liệt, khách hàng ngày càng khó tính, các hàng rào kỹ thuật mang tính “tự vệ” càng khắt khe… là những thách thức cho nông sản Việt Nam. ĐBSCL đã hình thành các mô hình nuôi tôm sạch, sản xuất cá tra theo chuỗi liên kết, trồng lúa hữu cơ… là những nỗ lực đáng ghi nhận của nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.

Còn nhớ, một thời gạo của Việt Nam chỉ chăm bẵm vào phân khúc gạo phẩm cấp thấp (25% tấm) để xuất khẩu. Đó là một thời, các doanh nghiệp xuất khẩu lệ thuộc vào thương lái đi thu gom lúa của nông dân dễ dẫn đến trộn lẫn cả chục giống lúa vào một lô xuất khẩu. Đó là một thời, gạo Thái Lan độc chiếm thị trường ở phân khúc gạo cao cấp, gạo thơm. Giờ điều đó đã thay đổi. Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu gần 5,8 triệu tấn, tăng gần 900.000 tấn so với năm 2016. Số lượng gạo cao cấp và gạo thơm các loại xuất khẩu chiếm trên 60% (khoảng 3 triệu tấn). Phân khúc gạo trung bình và phẩm cấp thấp chỉ còn chiếm khoảng 12% (khoảng 700.000 tấn). Đây được xem là một thay đổi cực kỳ quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam. Lượng gạo cao cấp, gạo thơm gia tăng đồng nghĩa với giá trị gia tăng, lợi nhuận của nông dân được cải thiện. Đây là điểm mấu chốt, khi doanh nghiệp đặt hàng, tạo động lực để nông dân thay đổi tư duy sản xuất, tạo ra hàng hóa chất lượng. Áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, tạo ra sản phẩm ngon - sạch, tiếp cận các thị trường khó tính chỉ thành công khi doanh nghiệp xuất khẩu quyết tâm làm và nông dân thay đổi tư duy sản xuất. Đó cũng là một cách giữ cho vựa nông sản ĐBSCL “xanh” trước những tác động ngày càng khốc liệt của môi trường.

Theo VĨNH TƯỜNG (Báo Hậu Giang)