Trả lời khiếu nại của vợ chồng ông Hà Văn Bé

31/10/2019 - 08:19

 - Ông Hà Văn Bé cùng vợ Trần Thị Thu Lan (ngụ ấp Cần Thuận, xã Cần Đăng, Châu Thành) gửi đơn đến Báo An Giang, nhờ can thiệp việc Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính trong khi chưa đưa vụ án ra xét xử, gây thiệt thòi cho họ.

Vợ chồng ông Bé trình bày: “Chúng tôi là nguyên đơn trong vụ kiện tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với bị đơn là UBND huyện Châu Thành. Đất ruộng do ông bà, cha mẹ tôi để lại, diện tích 6.817m2. Sau khi có luật “người cày có ruộng”, phần đất này do 4 hộ khác canh tác. Vợ chồng tôi đã trả thành quả lao động cho các hộ và nhận đất trực tiếp canh tác từ năm 1994 đến nay. Nhưng tôi hoàn toàn không hay biết bà Hà Thị Rớt (chị ông Bé - PV) lại được cấp GCNQSDĐ vào năm 1997. Đầu năm 2018, khi biết được việc này, tôi đã nhờ UBND xã Cần Đăng giải quyết. Tháng 3-2019, chúng tôi gửi đơn đến TAND tỉnh, được hướng dẫn đóng tiền tạm ứng án phí. Chúng tôi không hiểu thời hiệu khởi kiện là như thế nào, chỉ nghĩ đến TAND huyện không giải quyết được thì đến TAND tỉnh. Việc thưa kiện của vợ chồng tôi kéo dài liên tục từ năm 2018 đến nay, có những trở ngại khách quan làm tôi chậm gửi đơn tại TAND tỉnh. Do vậy, việc TAND tỉnh đình chỉ giải quyết vụ án là thiệt thòi cho quyền lợi của vợ chồng tôi”.

Trao đổi với phóng viên, TAND tỉnh cho biết, nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 11/2019/TLST-HC ngày 21-5-2019, nhận thấy vợ chồng ông Hà Văn Bé, bà Trần Thị Thu Lan khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh hủy GCNQSDĐ số 02759 QSDĐ/aG (diện tích 6.817m2, số thửa 539, 585, 4166, 4200, tờ bản đồ số 04) của UBND huyện Châu Thành cấp ngày 1-10-1997 cho bà Hà Thị Rớt. Vợ chồng ông khẳng định, diện tích đất ruộng nói trên có nguồn gốc do cha mẹ để lại cho ông và bà Rớt, nhưng bà Rớt không canh tác nên Tập đoàn 7 lấy phần đất này chia cho 4 người khác canh tác. Năm 1994, cả 4 hộ này trả lại đất cho bà Rớt để nhận thành quả lao động. Bà Rớt không đồng ý nhận đất nên vợ chồng ông Bé đã trả cho 4 hộ trên 23 chỉ vàng 24k và nhận lại đất, đồng thời canh tác liên tục cho đến nay. Đến tháng 2-2018, vợ chồng ông Bé biết được UBND huyện Châu Thành đã cấp GCNQSDĐ cho bà Rớt; tháng 3-2019 vợ chồng ông làm đơn khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ này.

Quá trình giải quyết vụ án, TAND tỉnh ban hành Thông báo số 171/2019/TB-TA ngày 25-9-2019, yêu cầu vợ chồng ông Bé trình bày về việc khởi kiện khi đã hết thời hiệu. Ngày 1-10-2019, vợ chồng ông Bé có văn bản trình bày: vào đầu năm 2018, khi phát hiện bà Rớt có GCNQSDĐ, vợ chồng ông nhờ UBND xã Cần Đăng giải quyết và gửi đơn khởi kiện tại TAND huyện Châu Thành vào tháng 1-2019, tuy nhiên TAND huyện Châu Thành không nhận đơn. Công văn số 138/CV-TA ngày 4-10-2019 của UBND huyện Châu Thành thông tin, tính đến ngày 4-10-2019, qua kiểm tra sổ nhận đơn và sổ thụ lý đơn thì TAND huyện Châu Thành không nhận bất kỳ đơn khởi kiện nào đứng tên của vợ chồng ông Bé.

Theo quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày người khởi kiện nhận được hoặc biết được quyết định hành chính. Do đó, ngày 21-3-2019, vợ chồng ông Bé mới khởi kiện yêu cầu tòa án hủy GCNQSDĐ nêu trên là đã hết thời hiệu khởi kiện. Các lý do mà vợ chồng ông Bé trình bày không thuộc trường hợp “Vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn” quy định tại Khoản 13, Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính, nên không có cơ sở để tòa án xem xét. Ngày 10-10-2019, Thẩm phán thụ lý hồ sơ đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định này. Phía Thừa phát lại đã tống đạt quyết định cho vợ chồng ông Bé, nhưng họ không nhận nên đã niêm yết ngày 11-10-2019. Đến ngày 21-10-2019, vợ chồng ông Bé mới kháng cáo thì xem như kháng cáo quá hạn, TAND tỉnh sẽ làm thủ tục gửi Tòa án Cấp cao xem xét đơn kháng cáo quá hạn (kèm theo phần trình bày lý do kháng cáo quá hạn của vợ chồng ông Bé). Ngày 28-10-2019, bà Lan đến tòa án, được lập biên bản ghi lời khai, nhưng bà không đồng ý, bỏ về. Tòa án đã có văn bản yêu cầu vợ chồng bà trình bày lý do việc kháng cáo quá hạn gửi tòa án, nhưng chưa thấy vợ chồng ông Bé, bà Lan gửi lại văn bản trình bày theo hướng dẫn.

Hiện nay, Thẩm phán đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính do hết thời hiệu (do hết thời hiệu nên tòa án không xử, tòa án chỉ thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh việc hết thời hiệu đó), vợ chồng ông Bé đã có đơn kháng cáo đối với quyết định này. Theo quy trình tố tụng, khi có đơn kháng cáo gửi TAND Cấp cao, phải chờ TAND Cấp cao xem xét lại việc đình chỉ của Thẩm phán là đúng hay sai, sau đó ban hành quyết định cụ thể. Nếu việc đình chỉ đó là sai thì sẽ hủy quyết định đình chỉ, giao hồ sơ về TAND tỉnh phân công Thẩm phán khác xử lại. Còn nếu quyết định đình chỉ là đúng, vợ chồng ông Bé không có quyền kiện nữa.

Bài, ảnh: K.N