
|
Quy định
mới tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
|
Ngày 20/11/2012, Quốc hội Khóa 13 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Quản lý thuế. Các nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung đã
khắc phục những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Quản
lý thuế; cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho người nộp
thuế; bổ sung những phương thức quản lý mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý thuế.
Luật sửa đổi, bổ sung liên quan đến 3 nhóm vấn đề
lớn. Nhóm vấn đề về đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, trong đó chủ
yếu liên quan đến các nội dung sửa đổi theo yêu cầu của Nghị quyết số
57/2010/QH12 của Quốc hội; Nghị quyết số 25/NQ-CP, Nghị quyết số
68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ.
Nhóm vấn đề về phục vụ mục tiêu cải cách, hiện đại
hoá và hội nhập, phù hợp thông lệ quốc tế. Nhóm vấn đề về nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quản lý thuế để phù hợp với thực tế và phù hợp với các
văn bản pháp luật có liên quan nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ
đọng thuế.
Theo đó, một số nội dung sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
Giảm thủ tục, thêm lợi ích
Thứ nhất, giảm tần suất kê khai thuế giá trị gia tăng
từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm đối với người nộp thuế quy mô vừa
và nhỏ.
Nghị quyết số 57/2010/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết
số 25/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ yêu cầu tạo thuận lợi cho người nộp
thuế quy mô nhỏ và vừa (bao gồm doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ, cá
nhân kinh doanh) được kê khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) 3 tháng/lần,
các doanh nghiệp lớn kê khai thuế GTGT 1 tháng/lần.
Luật hiện hành chỉ quy định khai theo tháng, theo
năm, tạm tính theo quý hoặc theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế, chưa
có quy định khai theo quý.
Vì vậy, Luật bổ sung tại Điều 31 về hồ sơ khai thuế
theo quý và các nội dung liên quan đến việc khai thuế theo quý tại
Khoản 1 Điều 32 (thời gian khai thuế), Khoản 2 Điều 33 (thời gian gia
hạn nộp hồ sơ khai) cho phù hợp và giao Chính phủ quy định tiêu chí xác
định người nộp thuế để kê khai theo quý.
Thứ hai, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia
hạn nộp hồ sơ khai thuế. Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của
Chính phủ về việc rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp
hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc xuống 3 ngày làm việc, Luật sửa đổi,
bổ sung Điều 33 về gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo hướng rút ngắn thời
gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế để đáp ứng nội
dung này.
Thứ ba, thay tờ khai quyết toán thuế trong hồ sơ đề
nghị xóa nợ đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Luật
hiện hành quy định trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì hồ sơ
xoá nợ tiền thuế phải có tờ khai quyết toán thuế. Trong trình tự xử
lý phá sản, cơ quan thuế đã tham gia xác định các khoản nợ thuế
và quyết định tuyên bố phá sản của Toà án là quyết định có
hiệu lực pháp lý.
Để giảm thủ tục hành chính và phù hợp với quy định
của pháp luật về phá sản, Luật sửa đổi Khoản 2 Điều 66 theo hướng quy
định hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt đối với trường hợp doanh nghiệp
bị tuyên bố phá sản sẽ sử dụng quyết định tuyên bố phá sản thay cho tờ
khai quyết toán thuế.
Bổ sung trường hợp gia hạn nộp thuế
Điều 49 Luật hiện hành quy định các trường hợp được
gia hạn nộp thuế bao gồm: (1) Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất
ngờ; (2) Không có khả năng nộp thuế đúng hạn do gặp khó khăn đặc biệt
khác theo quy định của Chính phủ.
Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số
106/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý
thuế có quy định chi tiết thêm các trường hợp cụ thể theo Khoản 2,
Điều 49 của Luật nêu trên.
Có ý kiến đề nghị đánh giá thực tiễn áp dụng các
trường hợp được gia hạn nộp thuế để Luật hoá đối với một số trường hợp
quy định tại Nghị định có tính chất ổn định lâu dài và phổ biến.
Qua rà soát với mục tiêu từng bước cụ thể hoá
quy định của Luật đồng thời đảm bảo tính ổn định, Luật bổ sung
việc gia hạn nộp thuế tại Khoản 1, Điều 49 đối với trường hợp:
Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo
yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến
kết quả sản xuất, kinh doanh; Chưa được thanh toán vốn đầu tư xây
dựng đã được ghi trong dự toán ngân sách Nhà nước.
Như vậy, về cơ bản Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đáp
ứng mục tiêu đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế
theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch nhằm tạo thuận lợi, giảm chi
phí, thời gian của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Dù
Luật mới được ban hành nhưng những nội dung này tại Luật đã đón nhận sự
đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ của người nộp thuế, góp phần vào thành công
của công tác cải cách thủ tục hành chính nước ta thời gian qua.