Trải qua hơn 150 năm, lễ hội truyền thống kỷ niệm Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực hy sinh tại phường Rạch Giá (tỉnh An Giang) (tên di sản gọi là lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá) không chỉ là dịp tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, người đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc với câu nói bất hủ “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây”, mà còn là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia mang giá trị lịch sử và nhân văn sâu sắc.

Lễ hội hội tụ nét đặc trưng của văn hóa Nam bộ, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, sự cố kết cộng đồng và lòng tự hào dân tộc. Từ một lễ cúng dân gian, lễ hội nay trở thành sự kiện văn hóa - du lịch lớn, thu hút hơn một triệu lượt người mỗi năm, lan tỏa tinh thần yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết của người dân Việt Nam qua nhiều thế hệ.

Tranh vẽ chân dung Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Ảnh: Tư liệu.

Tranh vẽ chân dung Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Ảnh: Tư liệu.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực thuở thiếu thời tên là Nguyễn Văn Lịch (còn gọi là Quản Chơn, Quản Lịch), sinh năm 1838, tại Bình Nhật, huyện Cửa An, phủ Tân An (nay thuộc tỉnh Tây Ninh) trong một gia đình nông dân làm nghề chài lưới. Sinh thời ông là người rất tinh thông võ nghệ, am hiểu sách thánh hiền, tính tình cương trực, giàu lòng yêu nước.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Trung Trực được tuyển chọn vào đội nông binh dưới quyền chỉ huy của Lãnh binh Trương Định, giữ các chức vụ Quyền sung quân binh, Quản cơ lãnh binh. Năm 1861, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định lần thứ hai, ông cùng đội nông binh tham gia bảo vệ Kỳ Hòa (Gia Định) dưới tướng Thống đốc quân Vụ đại thần Nguyễn Tri Phương.

Sau khi thành Gia Định thất thủ lần thứ hai (tháng 2/1861), ông đã tập hợp những người yêu nước có ý chí chống giặc ngoại xâm hoạt động kháng Pháp vùng Tây Nam bộ gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Tiêu biểu là trận chiến dùng hỏa công đốt cháy và nhấn chìm tiểu pháo hạm Hy vọng (L’Espérance ) tại vàm Nhựt Tảo (Bến Lức, Long An). Sau chiến công “Hỏa hồng Nhựt Tảo”, ông được triều đình Huế phong làm Thành thủ úy Hà Tiên. Nguyễn Trung Trực chưa kịp về Hà Tiên nhậm chức thì Hà Tiên đã bị đánh chiếm.

Nguyễn Trung Trực lui về Tà Niên tổ chức lực lượng tiến công tiêu diệt toàn bộ lính Pháp trú tại đồn Kiên Giang, làm chủ tỉnh lỵ trong 10 ngày. Lần đầu tiên trong lịch sử chống quân Pháp, dưới sự chỉ huy của vị tướng chưa đầy 30 tuổi với số lượng nghĩa quân ít ỏi đã đốt cháy được 1 tàu sắt được quân Pháp xem là vũ khí bất khả chiến bại thời bấy giờ và đánh chiếm làm chủ 1 đồn thành tỉnh lỵ lớn trong 10 ngày.

Quân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm nhất nhằm tiêu diệt bằng được nghĩa quân Nguyễn Trung Trực để dập tắt tinh thần kháng chiến. Cuối cùng quân Pháp đã bắt được ông, đem về Sài Gòn thẩm vấn, dùng chức tước, tiền tài khuyến dụ, nhưng không thành công. Ngày 27/10/1868, quân Pháp đem Nguyễn Trung Trực về xử chém tại Rạch Giá, khi đó ông mới 30 tuổi. Người dân tỉnh Rạch Giá đổ về khu vực pháp trường (gần đồn Kiên Giang) để chứng kiến và đưa tiễn ông. Với 2 chiến công vang dội và thân thế, sự nghiệp của ông, dân chúng tạo, nên rất nhiều truyền thuyết và chuyện kể mang màu sắc dân gian để tôn vinh ông.

Sau khi Nguyễn Trung Trực bị xử tại Rạch Giá, để tưởng nhớ công lao của người anh hùng xả thân vì nước, người dân đã lén lút thờ cúng ông tại đình thờ Ông Nam Hải tại xóm chài trên bờ kênh Ông Hiển.

Đến năm 1891, đình thần Nam Hải được di dời về địa điểm hiện tại thuộc phường Rạch Giá (tỉnh An Giang ngày nay). Hàng năm tại đình tổ chức lễ cúng giỗ ông là ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch. Dần dần, ngày cúng ông đã trở thành một lễ hội của đình. Trải qua hơn 150 năm thăng trầm, đình thần Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá được Nhân dân tôn vinh là đình thờ chính và là nơi tổ chức lễ hội chính hàng năm thu hút hơn 1 triệu lượt người tham dự.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tôn vinh là “tướng lĩnh nông - ngư dân xuất sắc” đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của Nhân dân Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Đây là một cuộc khởi nghĩa tiêu biểu sau khi Pháp chiếm toàn bộ Nam Kỳ. Người dân rất kính ngưỡng, tôn vinh ông là “Thần”, gọi ông là “Ông Nguyễn”, “Cụ Nguyễn”, “Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực”, “Quan thượng đẳng đại thần” dù lúc bị xử chém ông chỉ mới 30 tuổi.

Nhiều nơi lập đình thờ Nguyễn Trung Trực hoặc phối thờ ông với những vị thần khác và tổ chức lễ cúng ông hàng năm chung với các vị chính thần hoặc lễ cúng riêng. Lễ được tổ chức tại đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá (gọi tắt đình thần Nguyễn Trung Trực) là lễ hội có quy mô lớn nhất.

Đình thần Nguyễn Trung Trực ngày nay được xây dựng lại từ đình thờ Nam Hải (miếu thờ Cá Ông) là vị thần thành hoàng bổn cảnh của làng Vĩnh Thanh Vân. Sau năm 1840, sau khi Phó Cơ Nguyễn Hiền Điều tử trận, người dân đưa thủ cấp của Phó cơ vào thờ trong đình nên còn gọi đình Phó Cơ Điều.

Năm 1852, đình được sắc phong “Đại càn quốc gia Nam Hải đại tướng quân tôn thần”. Đến năm 1868, sau khi Nguyễn Trung Trực bị xử chém, Ban Hội tề làng Vĩnh Thanh Vân lập linh vị ông thờ chung bàn thờ với Phó Cơ Điều. Để tránh bị Pháp khủng bố, người dân đã phải lập bàn thờ dưới hình thức thờ thần Nam Hải và cúng giỗ phải chọn một ngày khác ngày ông bị xử chém.

Các vị hương lão đã chọn ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch là ngày lễ hội cúng tế ông Nguyễn. Năm 1891, đình được xây dựng lại bằng cây gỗ lớn hơn, mái lợp ngói và diện tích cũng rộng hơn ngôi đình cũ. Sau Hiệp định Genève năm 1954,  đình thần Nam Hải chính thức đổi tên là đình thần Nguyễn Trung Trực. Đến năm 1963, đình bị hư hỏng nhiều không thể sửa chữa được, do đó nhân dân địa phương đã họp lại cùng nhau góp công, góp của để xây dựng lại. Đình được khởi công xây dựng vào tháng 12/1964, hoàn thành vào tháng 2/1970, thiết kế xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thực hiện.

Theo lịch sử của đình ghi lại, vào năm 1908 trong buổi cúng kỳ yên của đình, ban hội tề làng có mời viên tỉnh trưởng người Pháp tới dự lễ. Trong đoàn của viên tỉnh trưởng này có 1 viên sĩ quan người Pháp, có học ở Trung Quốc, biết chữ Hán - Nôm và đọc được các câu liễn đối, kể cả linh vị Nguyễn Trung Trực. Viên tỉnh trưởng không hài lòng và tức giận bỏ về.

Ban hội tề lo sợ hắn gây bất lợi với Nhân dân nên không dám duy trì việc thờ cúng Nguyễn Trung Trực nữa. Có người đem sự việc kể cho một chủ trang trại người Pháp tên Hyacinthe Le Nestour (tự đặt tên là Lê Đức Tâm), có nhà đất tại vùng tiếp giáp Rạch Giá. Ông có vợ là người Việt, rất thông hiểu văn hóa Việt Nam và rất ngưỡng mộ Nguyễn Trung Trực. Ông Le Nestour nói chuyện với viên tỉnh trưởng và được đồng ý cho đưa linh vị Nguyễn Trung Trực về xã Tân Điền lập một đình bằng cây lá để thờ. Sau khi Le Nestour qua đời, con cháu vẫn duy trì việc thờ cúng và tu bổ ngôi đình ấy. Đến 1945, Pháp bị Nhật đảo chính, con cháu Le Nestour tản lạc xứ khác, ngôi đình không ai tu bổ, thờ cúng suốt nhiều năm.

Đầu thập niên 50 thế kỷ XX, Nhân dân Rạch Giá âm thầm thỉnh linh vị Nguyễn Trung Trực trở về đình cũ để thờ. Giai đoạn này tỉnh trưởng Rạch Giá đã thay thế bằng người Việt nên người dân công khai bày linh vị và thờ cúng ông Nguyễn tại đình. Khi ấy, trong đình có 3 bàn thờ: Chính giữa là bàn thờ thần (thành hoàng bổn cảnh), bên phải là bàn thờ thần Nam Hải, bên trái thờ Phó Cơ Nguyễn Hiền Điều và Nguyễn Trung Trực.

Phía sau linh vị của Nguyễn Trung Trực có bức di ảnh chân dung của ông. Năm 1957, linh vị và ảnh thờ của ông được dời vào bàn thờ chính giữa. Việc làm này là yêu cầu chính đáng của người Rạch Giá nói riêng và cả vùng Nam bộ nói chung nên chính quyền chấp nhận. Từ đó, ông Nguyễn đã chính thức trở thành chính thần của đình như thần thành hoàng bổn cảnh.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được Nhân dân tôn kính là người “Sinh vi tướng, tử vi thần”. Ông được xem là một tấm gương trung, dũng, hiếu, nghĩa vẹn toàn để các thế hệ sau noi theo. Từ 1950 -1951 phong trào đấu tranh đòi dân chủ, phục hưng văn hóa của Nhân dân miền Nam dâng cao. Trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt của mặt trận văn hóa, giới báo chí Sài Gòn muốn đánh thức ý thức tự tôn dân tộc bằng cách tạo ra hình ảnh vị Anh hùng Nguyễn Trung Trực.

Vào năm 1951, một tờ báo ở Sài Gòn thuê họa sĩ vẽ chân dung bán thân của Nguyễn Trung Trực. Người họa sĩ ấy có nói với biên tập viên là ông mô phỏng theo các nhân vật Phan Đình Phùng, Thủ Khoa Huân và Hoàng Hoa Thám, mỗi người một chi tiết, không phải chân dung người thật. Bức tranh thờ được chụp lại thành ảnh để in phát hành rộng rãi.

Năm 1951, sau khi bức ảnh chân dung của Nguyễn Trung Trực được in ra, Ban Hội tề làng Vĩnh Thanh Vân đặt in một bức ảnh lớn đưa về đặt tại bàn thờ chính và thờ cúng cho đến ngày nay. Dần dần những bức ảnh này được người dân tin là di ảnh của ông Nguyễn. Về sau bức tranh thờ chân dung này được phát triển thành tượng bán thân, tượng toàn thân để phục vụ cho nhu cầu thờ cúng của Nhân dân. Trong nhà của tín đồ đạo Phật giáo Hòa Hảo, đạo Cao Đài và những người dân tôn kính ông Nguyễn lập bàn thờ có để di ảnh hoặc treo di ảnh chân dung của ông.

Ngày 23/3/1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Mộ và đình Nguyễn Trung Trực” là di tích cấp quốc gia.

Ngày 23/3/1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Mộ và đình Nguyễn Trung Trực” là di tích cấp quốc gia.

Trước năm 1975, lễ hội chưa được tổ chức quy mô, phần hội rất ít mang tính chất là lễ cúng giỗ. Năm 1986, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt kêu gọi vận động tôn tạo, tu bổ lại khu vực mộ và Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá. Ngày 23/3/1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Mộ và đình Nguyễn Trung Trực” là di tích cấp quốc gia. Sau khi được xếp hạng, Đình thần Nguyễn Trung Trực đã thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa và giáo dục truyền thống yêu nước cho Nhân dân rất có hiệu quả.

Năm 1988, nhân 120 năm ngày hy sinh của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, chính quyền, ban bảo vệ đình thần Nguyễn Trung Trực và nhân dân tổ chức nâng quy mô tổ chức lên thành lễ hội tiêu biểu của tỉnh. Từ đó lễ hội được tổ chức đều đặn, đã trở thành là ngày hội lớn của cả vùng Nam bộ, người dân từ nhiều tỉnh, thành phố về tham dự lên đến hơn 1 triệu lượt mỗi năm.

Tùy theo quy mô hàng năm, các hoạt động hội sẽ được lập kế hoạch để tổ chức phục vụ người tham dự lễ hội. Các hoạt động tạo sự thu hút và hoạt động chung cho cộng đồng như thi đấu các môn thể thao cổ truyền, trò chơi dân gian, biểu diễn lân sư rồng; thi làm cộ hoa, xe hoa; hội chợ, triển lãm hàng hóa địa phương; các gian hàng ẩm thực dân gian, đặc sản địa phương; sân khấu đờn ca tài tử; chương trình nghệ thuật sân khấu hóa; chiếu phim lưu động; triển lãm ảnh lịch sử, ảnh nghệ thuật, thư pháp...

Nghệ thuật diễn xướng dân gian: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật trước đây có hát tuồng, đờn ca tài tử, đố thai... với các chủ đề ca ngợi lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, truyền thống chống ngoại xâm, ca ngợi Anh hùng Nguyễn Trung Trực. Một số sân khấu văn nghệ ngoài trời được tổ chức biểu diễn với giao lưu hát với nhau, đố thai, liên hoan giao lưu văn nghệ quần chúng của ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer.

Khoảng 10 năm nay, một chương trình được xem là tâm điểm của phần hội là chương trình sân khấu hóa lễ hội, đồng thời là chương trình văn nghệ chào mừng khai mạc lễ hội diễn ra vào đêm 26 tháng 8 âm lịch. Chương trình được tổ chức quy mô, thu hút hàng chục ngàn người tham dự. 

Trò chơi dân gian: Các trò chơi được tổ chức trong lễ hội là những hoạt động gần gũi với sinh hoạt đời thường mang ý nghĩa rèn luyện trí tuệ, kỹ năng lao động, tinh thần thượng võ, giáo dục thẩm mỹ, đạo đức, ý thức cố kết cộng đồng. Các trò chơi dân gian được tổ chức phong phú, hấp dẫn, cuốn hút nhiều người tham gia như cờ người, đua thuyền, đấu và biểu diễn võ thuật, hội thi múa lân, sư, rồng…

Ngoài ra, tùy theo từng năm ban tổ chức cho tổ chức nhiều trò chơi khác như kéo co, thi nhảy bao bố, thi đập nồi... Bên cạnh đó còn có nhiều hoạt động khác như: Hội chợ thương mại, triển lãm hoa lan, cây cảnh, thú nuôi... phục vụ đông đảo du khách hành hương trong tại nhiều địa điểm sẽ diễn ra suốt thời gian lễ hội.

Ẩm thực trong lễ hội: Các lễ vật dâng cúng thường là các món đồ chay và đồ mặn, như: Heo quay, khoai lang, xôi, hoa quả, trà, nước giải khát ... Đặc biệt, những món vật cúng có món khoai lang, cua đồng, cá lóc nướng. Những món này được dâng cúng mang ý nghĩa tưởng nhớ lại những ngày Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân kháng chiến chống Pháp gian khổ.

Hoạt động phụ trợ khác trong lễ hội: Hội chợ, triển lãm thương mại thu hút hàng trăm doanh nghiệp và hàng chục ngàn người tới mua sắm, giao lưu thương mại. Nhiều đội lân sư rồng đến từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh luôn góp vui phục vụ đông đảo du khách hành hương trong các buổi tối tại nhiều địa điểm, làm cho không khí lễ hội càng thêm náo nức.

Những năm gần đây có tổ chức thêm liên hoan giao lưu văn nghệ quần chúng của ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Từ năm 2013, ban tổ chức cho xây dựng nhiều hoạt động biểu diễn nghệ thuật phục vụ quy mô như chương trình nghệ thuật sân khấu hóa lễ hội, không gian đờn ca tài tử Nam Bộ, biểu diễn lân sư rồng, thi diễn thư pháp, triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật, Hội thi “Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực”... Các hoạt động thu hút nhiều nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi tình nguyện phục vụ miễn phí đông đảo Nhân dân. Các điểm trưng bày hình ảnh, sản phẩm hàng hóa giới thiệu những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh được tổ chức hoạt động suốt thời gian diễn ra lễ hội.

Lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá được gọi là “lễ hội của người bình dân Nam bộ”. Sự đặc biệt này đã tạo nên sức sống mãnh liệt và lan tỏa sâu rộng từ đồng bằng sông Cửu Long ra khắp Nam bộ, Trung bộ và đang tác động đến một số tỉnh miền Trung Tây Nguyên.

Mặc dù dưới thời Pháp thuộc, bị chính quyền thực dân cấm đoán hết sức gắt gao, nhưng Nhân dân ở các tỉnh Kiên Giang (cũ), Long An, An Giang (cũ), Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau… vẫn bí mật thờ và tổ chức lễ giỗ Nguyễn Trung Trực. Theo thống kê bước đầu tại có 23 điểm thờ tại 5 tỉnh là Long An, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng có điểm thờ Nguyễn Trung Trực, có tổ chức lễ cúng tế hàng năm. Đặc biệt, vào năm 2020 tại Xóm Chài, xã Tiên Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định (nay là tỉnh Gia Lai) là quê hương của Nguyễn Trung Trực đã khánh thành đình thờ Nguyễn Trung Trực và tổ chức lễ hội cúng giỗ ông vào ngày 13 tháng 9 âm lịch.

Việc tổ chức lễ tưởng niệm ngày mất Nguyễn Trung Trực đã trở thành một hoạt động văn hóa có tính truyền thống trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ vùng này sang vùng khác. Tất cả mọi người đến với lễ hội bằng tấm lòng tự nguyện như chuyện của gia đình, dòng tộc, hầu như không mang tính vụ lợi cá nhân. Người dân đồng bằng sông Cửu Long vẫn lưu truyền hai câu thơ lục bát:

Lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá gắn liền với lịch sử văn hóa - xã hội của tỉnh Kiên Giang (nay là An Giang) trong hơn 150 năm qua. Xuất phát từ văn hóa truyền thống, lễ hội không chỉ được tổ chức tại điểm thờ chính Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá mà còn được tổ chức ở các điểm thờ Nguyễn Trung Trực khắp đồng bằng sông Cửu Long.

Lễ hội đã minh chứng một quá trình lịch sử của tỉnh thông qua các kỳ lễ hội. Các giá trị lịch sử được thể hiện thông qua việc bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với những người có công với đất nước được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Giá trị lịch sử của lễ hội có tác động rất lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân trong tỉnh và đồng bằng sông Cửu Long, góp phần vào việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ và tăng tính đoàn kết cộng đồng bền chặt.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là niềm tự hào thiêng liêng của Nhân dân ta, là biểu tượng sáng ngời tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm. Việc tổ chức lễ tưởng niệm công đức của một vị anh hùng là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Do vậy, các giá trị văn hóa của lễ hội mang tính giáo dục tinh thần yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tính cố kết cộng đồng, tính bình đẳng và tự giác cần được bảo tồn và phát triển như một di sản văn hóa của dân tộc.

Giá trị văn hóa của lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá được thể hiện thông việc thờ phụng và tổ chức lễ giỗ tưởng nhớ ông. Người dân tin vào sức mạnh linh thiêng của Ông Nguyễn. Đến với lễ hội là đến với Ông Nguyễn - chỗ dựa tinh thần đặc biệt có thể che chở tránh được những chuyện xấu, phù trợ gặp nhiều may mắn, tai qua nạn khỏi.

Do yếu tố lịch sử, xã hội tác động, nên từ khi hình thành việc thờ cúng Ông Nguyễn đến việc tổ chức lễ hội, lễ cúng ông ở các điểm thờ Nguyễn Trung Trực có sự khác nhau. Người dân tự nguyện cúng tế ông như tổ tiên ông bà trong gia đình. Tín đồ đạo Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài tôn vinh Nguyễn Trung Trực là “Thượng đẳng đại thần”, lập nhiều đình thờ ông, trong nhà lập bàn thờ thờ di ảnh của ông. Ông Nguyễn đã trở thành một người thân thuộc như “Cửu huyền thất tổ” của một bộ phận người dân đồng bằng sông Cửu Long. Ông được người dân thờ phụng trong nhà, hương khói cúng tế hàng ngày.

Tính thiện nguyện không phân biệt đẳng cấp xã hội và tuổi tác đã tạo nên sự khác biệt giữa Lễ hội Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá với những lễ hội lớn khác của Việt Nam. Một số hoạt động truyền thống được xem là giá trị văn hóa đặc biệt của lễ hội, đó chính là đóng góp tài vật và công quả phục vụ khách đến dự lễ. Hàng năm, cứ đến dịp lễ, hàng ngàn người từ khắp nơi tụ họp về để góp sức chuẩn bị và tham gia công tác phục vụ tại đình cho đến khi kết thúc lễ hội.

Ngoài việc tự nguyện đóng góp gạo, củi, thực phẩm, tiền chợ... người dân còn rất vui vẻ tham gia tất cả những công việc trang hoàng, nấu nướng... phục vụ cho hàng trăm ngàn lượt khách đến dự lễ ăn uống miễn phí suốt thời gian diễn ra lễ. Đây là hoạt động mang tính cộng đồng, tính truyền thống từ lễ hội hiện vẫn được bảo tồn và phát huy. Hoạt động này tạo nên sự cố kết chặt chẽ tất cả những thành phần tham gia. Lễ hội đang được xã hội hóa ngày càng sâu rộng và trở thành một sự kiện văn hóa của quần chúng.

Lễ hội là nơi tăng cường tính cố kết cộng đồng, nâng cao chủ quyền quốc gia, đoàn kết các dân tộc chung một biểu tượng thần linh “Ông Nguyễn” - vị thần có công với đất nước được người dân Nam bộ kính ngưỡng tôn vinh. Việc thờ phụng và tổ chức Lễ hội Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá đã hun đúc tình đoàn kết của các tầng lớp Nhân dân vì là một công việc của tập thể, hoàn toàn do sự tự nguyện đồng lòng, đã vượt khỏi phạm trù gia đình, tộc họ để vươn ra toàn xã hội, toàn dân tộc.

Bằng chứng cứ văn bản thần tích, truyền thuyết, các tác phẩm văn học, các di tích phụng thờ và các nghi thức tế lễ, tổ chức hội, có thể khẳng định Nguyễn Trung Trực có một vị trí rất quan trọng trong tâm thức dân gian người Việt với một vòng hào quang thần thánh. Một nhân vật lịch sử, một anh hùng cứu nước đã trở thành một vị thần. Sự chuyển hóa từ Anh hùng Nguyễn Trung Trực đến “Ông Nguyễn”, “Cụ Nguyễn”, “Quan thượng đẳng đại thần” cần được lý giải sâu hơn về bản chất, cũng như những căn nguyên lịch sử xã hội.

An Giang là một tỉnh có nhiều lợi thế về phát triển du lịch cả về cảnh quan thiên nhiên và di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là Lễ hội Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá hàng năm thu hút hơn một triệu lượt khách. Để đáp ứng nhu cầu của Nhân dân, lễ hội đã có sự thay đổi điều chỉnh cho phù hợp và với quy mô ngày càng lớn hơn.

Mỗi năm, lượng khách đến tham dự lễ hội ngày càng đông, không chỉ nhân dân trong tỉnh mà còn ngoài tỉnh và du khách quốc tế. Di sản văn hóa di tích Lễ hội Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá là tài nguyên du lịch có giá trị rất lớn để góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và du lịch đồng bằng sông Cửu Long nếu được tổ chức khai thác hợp lý.

TÂY HỒ thực hiện

(Nội dung dựa trên lý lịch di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Đình thần Nguyễn Trung Trực - Rạch Giá)

Chia sẻ bài viết: