>> Những tấn thảm kịch bi thương nhất trong hoàng tộc VN (kỳ 1)
Nguyên phi Ỷ Lan bức chết Dương Thái hậu cùng 76 thị nữ
Sử sách chép: năm 1072, Vua Lý Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức
(con đẻ của Ỷ Lan Nguyên phi) mới 6 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Lý Nhân
Tông (1072-1127). Ỷ Lan được tôn phong Linh Nhân Thái phi, còn hoàng hậu
họ Dương là Thượng Dương Hoàng thái hậu - đã dựa vào thế lực của Thái
sư Lý Đạo Thành, gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Ngoài ra, lễ xưa cũng quy
định, hễ hoàng đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi thì thái hậu được quyền
nhiếp chính, nhưng Dương Thái hậu lại không phải là mẹ đẻ của Lý Nhân
Tông, điều đó càng khiến Linh Nhân Thái phi căm tức. Đến năm 1073, một
vụ tàn sát bi thảm đã diễn ra, mà nạn nhân chính là Dương Thái hậu cùng
76 thị nữ (cũng có sách nói chỉ có 72 thị nữ).
 |
Đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Ảnh: internet |
Sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi: Linh nhân có tính hay
ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với Vua rằng:
Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý thì người khác
thưởng, vậy con để mẹ già vào đâu? Vua bèn sai giam Dương Thái hậu và 76
người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi bức phải chết, cho chôn theo
lăng của Thánh Tông.
Phân tích bản chất vụ án này, trong cuốn Chuyện tình các vua chúa Việt Nam,
TS Đinh Công Vỹ một mực cho rằng, Nguyên phi Ỷ Lan đã phạm tội “giết
người hàng loạt”, đã giết hại vợ cả của chồng. “Sự tham lam quyền lực,
sự ích kỉ cá nhân đã giết chết hết mọi nhân tính của Ỷ Lan”, TS Vỹ nhận
xét.
Nhà sử học Lê Văn Lan và TS Phật học Thích Đức Thiện, trụ trì chùa
Phật Tích, đều cùng chung một cái nhìn nhân ái về việc này: "Trong sự
nghiệp làm chính trị thì âu đấy cũng là chuyện thường thấy…". Trước
đó, sử thần Ngô Sĩ Liên cũng giải thích: “Nhân Tông là người nhân hiếu,
Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết Thái hậu, hãm hại
người vô tội đến mức tàn nhẫn như thế? Ấy vì ghen là tính thường có của
đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu
là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với Vua.
Bấy giờ, Vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích mà không biết
là lỗi to…”.
Tuy nhiên, động cơ thực sự là thế nào thì vì vụ án
oan trên, dù được coi là phụ nữ không chỉ có sắc đẹp, mà có tài và uyên
bác bậc nhất của nước Việt, Nguyên phi Ỷ Lan vẫn bị các nhà chép sử xưa
không muốn nhắc nhiều đến những công đức của bà trong việc góp phần xây
dựng nên một nền văn hóa rực rỡ thời Lý.
Cái chết oan khuất của Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn
Theo
sử cũ, Trần Quốc Chẩn là con thứ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn, em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Ông không chỉ là người có
tài trong việc cầm quân xung trận, mà còn là người nổi tiếng
đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Ông được
vua Trần Anh Tông hết mực tin cậy. Khi vua con Minh Tông nối ngôi, vào
năm Quý Hợi (1323), con gái của Quốc Chẩn đã được lập làm Hoàng hậu
Lệ Thánh.
Cùng với việc con gái được sách phong, năm Khai Thái
thứ nhất, Trần Quốc Chẩn được phong Nhập nội Quốc phụ thượng tể, chức
quan đầu triều, trông coi lục bộ thượng thư. Thế nhưng, quyền cao
chức trọng là vậy, song liên quan tới chuyện con gái vẫn mãi chưa sinh
hạ hoàng nam cho hoàng thượng, mà Quốc phụ thượng tể đã mất mạng thật
oan khuất.
 |
Đền thờ Nhập nội Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ảnh: internet |
Chuyện cụ thể như sau: Khi Vua Minh Tông ở ngôi 15 năm, Hoàng hậu Lệ
Thánh vẫn chưa sinh hạ hoàng nam, nhưng các phi tần khác đều đã có con,
gồm: hoàng tử Vượng lớn nhất, tiếp đến là hoàng tử Nguyên Trác, hoàng tử
Phủ, hoàng tử Kính... Trong triều chính luận bàn nhiều về ngôi vị thái
tử. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: Quốc Chẩn
tự nhận mình là cố mệnh đại thần, lại là bố đẻ của Hoàng hậu Lệ Thánh,
nên cố chấp là đợi khi nào Hoàng hậu sinh con trai trưởng sẽ lập làm
thái tử. Văn Hiến hầu (con của Trần Nhật Duật, không rõ tên) muốn đánh
đổ Hoàng hậu để lập Hoàng tử Vượng, bèn lấy 100 lạng vàng đút lót cho
gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, xúi Trần Phẫu vu cáo Quốc Chẩn âm
mưu làm phản.
Nhà vua tin lời Trần Phẫu, bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc, rồi đem
việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung vốn cùng bè đảng với
Văn Hiến hầu, lại là người cùng làng với mẹ đẻ của Vượng (bà Minh Từ
Thái phi, người họ Lê, quê ở Giáp Sơn); hơn nữa, Khắc Chung từng giữ
chức Sư phó để dạy Vượng, vì thế ông liền tâu ngay bằng câu thành ngữ:
Tróc hổ dị, phóng hổ nan (bắt hổ dễ, thả hổ nguy). Nhà vua bèn cấm tuyệt
không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu phải thấm nước
vào áo đưa đến cho uống. Quốc Chẩn uống xong thì mất. Những người bị bắt
lây lên đến hơn hai trăm, khi tra hỏi, ai cũng kêu gào là oan.
Vài năm sau, vợ cả, vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau, đem việc Văn Hiến
hầu đút lót vàng ra tố cáo. Nhà vua giao việc này cho quan giữ việc hình
ngục là Lê Duy xét hỏi. Lê Duy là người cương trực, lập tức tra xét
ngay. Trần Phẫu phải tội lăng trì (tức xẻo thịt từng miếng cho đến
chết), nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của Thiệu Vũ (con Quốc Chẩn)
đã xẻo thịt Trần Phẫu ăn sống gần hết. Văn Hiến Hầu tuy được tha tội
chết, nhưng giáng làm thứ nhân, tước bỏ tên họ trong hoàng tộc.
Có thể nói, trong cuộc đời mình, Vua Trần Minh Tông lúc nào cũng bị
ám ảnh bởi vụ án oan của cha vợ. Để sửa sai, nhà vua đã cho khôi phục
chức tước, sai lập đền thờ Trần Quốc Chẩn, thậm chí còn làm thơ để tự
trách mình: Thu khí hòa đăng thất thự minh/ Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh/ Tự tri tam thập niên tiền thác/ Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh. Tạm dịch: Hơi
thu và ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai/ Tàu chuối xanh ngoài cửa sổ
tiễn canh tàn/ Tự biết sai lầm của ta ba mươi năm trước/ Đành ôm sầu
ngồi nghe mưa rơi.