Bài “Tình già” khơi thông dòng thơ mới

11/03/2025 - 07:25

 - Hồi cố để tiếp tục nhận thức đầy đủ hơn về di sản văn học quá khứ, đồng thời nhận ra sức sống, sự ảnh hưởng của dòng thơ mới từ bài thơ “Tình già” của Phan Khôi mà tác giả “châm ngòi” đã 93 năm.

Ông Phan Khôi (1887 - 1959), sinh ra ở làng Bảo An (TX. Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), là con của Phó bảng Phan Trân, tri phủ Diên Khánh, là cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu. Là một học giả tên tuổi, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, ông cộng tác với nhiều tờ báo, như: Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Đông Pháp thời báo, Thực Nghiệp dân báo, Hữu Thanh, Trung Lập, Tràng An, Tri Tân, Tao Đàn; chủ trương tờ Sông Hương… Ông viết trên ngàn bài báo về văn học, sử học, văn hóa, ngôn ngữ học, lý luận, chính trị, xã hội. Thập niên 30 của thế kỷ XX, ông “châm ngòi” cho nhiều cuộc bút chiến về Quốc học, về Truyện Kiều, tranh luận về duy tâm và duy vật, về phong kiến Việt Nam; từng “đọ bút” với các tên tuổi nổi tiếng đương thời: Trần Trọng Kim, Trần Huy Liệu, Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Tản Đà, Hải Triều, Nguyễn Tiến Lãng…

Trên “Tập văn mùa Xuân” của báo Đông Tây số Tết Nhâm Thân 1932, ở Hà Nội, xuất hiện bài báo “Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi - trong bài viết đăng kèm bài thơ “Tình già”. Ngay tiếp đó, bài thơ được ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122, ngày 10/3/1932, ông Phan Khôi là người đầu tiên khai mở một lối thơ được gọi là “thơ mới” trong lịch sử thi ca Việt Nam. Đồng thời, bài “Tình già” của ông được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử văn học coi như một “tuyên ngôn” của “thơ mới” vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Vừa ra đời, bài thơ “Tình già” gây tiếng vang từ Bắc chí Nam, có cả ngợi khen, cũng như chê bai, cổ vũ mạnh mẽ cũng như bài xích gay gắt, kéo theo hàng loạt cuộc tranh luận, đăng đàn của các đại biểu 2 phái “thơ cũ” và “thơ mới”.

Vợ chồng ông Phan Khôi

Bằng lối viết gần gũi, dễ hiểu, dỡ bỏ luật vận, linh hoạt trong câu thơ, gia tăng khẩu ngữ, phái “thơ mới” cổ súy mạnh mẽ cho tinh thần tự do cá nhân, hướng đến một thế giới riêng tư đang ẩn giấu tâm hồn của con người. Họ đã tạo “một cuộc cách mạng trong thơ ca” vì lối thơ cũ sáo mòn đã giam hãm, kìm kẹp con người cá nhân và văn chương nghệ thuật mà cụ Phan Châu Chinh đã từng than thở: “Muôn dân trói buộc vòng nô lệ/ Tám vế thơ văn giấc ngủ nồng”.

“Thơ mới” là không âm vận, phái “thơ cũ” không tiếc lời chỉ trích, chê bai:“Nghĩa lý vơ vơ rồi vẩn vẩn/ Thanh âm ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ/ So với Á học như dưa đắng/ Sánh với Âu văn tựa mít xơ…” Và đả kích trực diện vào Phan Khôi là bài thơ “Nhàn ngâm” của tác giả Tùng Thành: “Trách bác Phan Khôi khéo rắc rối/ Noi gương Hồ Thích làm thơ mới/ Câu dài, câu ngắn chẳng ra sao/ Vần đụp, vần đơn nghe thật thối”. Họ cho rằng những người làm “thơ mới” đều bất tài, không làm nổi bài thơ luật nên mới phải làm “thơ mới”, là một loại thơ dễ dãi về kỹ thuật, đó là những người chẳng hiểu gì về thơ cả. Phe ủng hộ “thơ cũ” cũng đăng đàn phản pháo, như ông Nguyễn Văn Hanh ở Sài Gòn. Tiếp đó, các tác giả nổi tiếng đương thời: Tản Đà, Tùng Lâm, Thái Phỉ, Hoàng Duy Từ... thường bút chiến trên các mặt báo.

Tuy nhiên, nhiều người thời đó lên tiếng phản pháo, tựu trung họ viết: Đọc bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, chúng tôi thấy là một kiểu làm thơ văn xuôi, cũng “câu ngắn, câu dài... vần đụp, vần đơn” như tác giả Tùng Thành đã từng viết, nhưng sao chúng tôi vẫn thấy hay, thấy thích, thấy rung động, có lẽ cái hồn thơ, hồn người ở trong đó chăng? Để trả lời, tác giả Phan Khôi giải thích: “Đại phàm thơ là để tả cảnh tự tình, hoặc tình, hoặc cảnh cũng phải qui cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó câu thúc tâm hồn con người quá. Bởi vậy, tôi rắp toan bày ra một lối “thơ mới”. Vì nó chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên và kêu là lối thơ gì được. Song, có thể cử đại ý là lối “thơ mới”, đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bị bó buộc bởi những niêm luật gì hết”- Vị thế Phan Khôi trong phong trào “thơ mới” nhìn từ thực tại thơ mới 1932 - 1945.

Đến năm 1941, cuộc tranh chấp giữa “thơ mới” và “thơ cũ” coi như khép lại. Nhiều người trong cuộc có đủ lý do để gạt bỏ những cố chấp của bản thân. Đặc biệt, trong thi nhân Việt Nam - một công trình được coi là tác phẩm đầu tiên tổng kết về “thơ mới”, được nhà phê bình Hoài Thanh trứ danh nhận định: “Đừng lấy một người sánh với một người, hãy sánh thời đại cùng với thời đại. Tôi quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này.

Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc hồn thơ mở rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực như Xuân Diệu. Tới đây, tấn kịch “thơ mới”, “thơ cũ” trong phạm vi thi ca của một thời đã đến hồi kết. “Thơ mới” đã xác lập địa vị thống trị trên thi đàn, với những tên tuổi nổi bật, như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đinh Hùng...; định vị một trường phái, một phong trào cách tân văn học Tự lực Văn đoàn, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội.

93 năm trôi qua, cuộc cách mạng “thơ mới” đem đến cho nền thi ca Việt Nam một sức sống mới. Đến nay, không ít nhà thơ đương đại vẫn bị sức hút “thơ mới”, tự làm mới bản thân khẳng định mình và những giá trị của “thơ mới” vẫn được ghi nhận, phát huy. Đọc lại bài “Tình già” của Phan Khôi, vẫn thấy hay, thấy thích, thấy rung động: “Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa/ Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ/ Hai cái đầu xanh kề nhau than thở: Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng/ Mà lấy nhau hẳn là không đặng/ Để đến nỗi, tình trước phục sau/ Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau”.

NGUYÊN HẢO