Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới

09/05/2018 - 06:48

 - Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) đã đề ra nhiều mục tiêu và giải pháp về công tác dân số trong tình hình mới. Để quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, Tỉnh ủy đã xây dựng kế hoạch hành động thực hiện phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của tỉnh.

Điểm mới đáng chú ý đầu tiên về  công tác dân số (CTDS) trong tình hình mới là việc chuyển trọng tâm chính sách DS từ kế hoạch hóa gia đình sang DS và phát triển, giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề DS về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng DS và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 21 của Trung ương và kế hoạch hành động của Tỉnh ủy đặt ra vấn đề duy trì vững chắc mức sinh thay thế trong việc nâng cao chất lượng DS. Nước ta đã khống chế thành công tốc độ gia tăng DS. DS trong độ tuổi lao động tăng mạnh và nước ta đang ở trong thời kỳ DS vàng, một cơ hội hiếm có để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Từ Nghị quyết số 21, Tỉnh ủy đề ra mục tiêu đến năm 2030 tiếp tục duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con), quy mô DS 2,3 triệu người. Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị; phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn. Phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỷ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%. Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất.

Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới

Ảnh: THANH HÙNG

Bên cạnh đó, phấn đấu đến năm 2030, tuổi thọ bình quân của người dân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung. Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5cm, nữ đạt 157,5cm; chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Tỷ lệ DS đô thị đạt trên 45%. Bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. 100% DS được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.

Để thực hiện đạt mục tiêu trên, Tỉnh ủy đã đề ra các giải pháp thực hiện, như: tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, đưa CTDS, đặc biệt là nâng cao chất lượng DS thành nội dung trọng tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương, chính sách về CTDS, nhất là sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội…

Đổi mới về nội dung tuyên truyền, vận động về CTDS. Nội dung truyền thông, giáo dục phải chuyển mạnh sang chính sách DS và phát triển. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có đủ 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh và nuôi dạy con tốt. Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, khơi dậy phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục - thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực người Việt Nam. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cư trú, cấm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục DS, sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ trẻ.

Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về DS; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về DS; bảo đảm nguồn lực cho CTDS. Chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ DS. Theo đó, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ DS các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách DS và phát triển. Đưa nội dung DS và phát triển vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người dân…

THU THẢO