Cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Theo Bộ Tư pháp, sau 17 năm triển khai thi hành, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã thể chế hóa các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp thấy rằng, một số quy định hiện hành liên quan đến thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam chưa thực sự tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được có quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài; chưa thu hút được nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Xuất phát từ cơ sở chính trị và cơ sở thực tiễn, Bộ Tư pháp nêu rõ, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó “nới lỏng” chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Qua đó, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới là cần thiết.
Thống kê của Bộ Tư pháp cho thấy, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 6 triệu người, sinh sống tại hơn 130 quốc gia, vùng lãnh thổ. Tính đến tháng 3/2025, Chủ tịch nước đã cho trở lại quốc tịch Việt Nam đối với 311 trường hợp, trong đó có 20 trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài; cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với 7.014 trường hợp, trong đó có 60 trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài.
“Nới lỏng” quy định về nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung nội dung của 17/44 điều.
Theo đó, liên quan thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, dự thảo Luật sửa đổi quy định về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha hoặc mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể: Sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 19 theo hướng đối với người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 19 theo hướng người xin nhập quốc tịch Việt Nam nếu có cha hoặc mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1, Điều 19 dự thảo Luật. Theo đó các trường hợp này được phép nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài mà không cần phải về nước thường trú.
Đồng thời, bỏ quy định về trường hợp đặc biệt được nhập quốc tịch Việt Nam, giữ quốc tịch nước ngoài và giao Chính phủ quy định điều kiện cụ thể. Theo đó, các trường hợp xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó và không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Dự thảo Luật cũng sửa đổi theo hướng bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch. Như vậy, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam.
Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 theo hướng bỏ quy định “Người được trở lại quốc tịch Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài” và trường hợp đặc biệt được giữ quốc tịch nước ngoài. Theo đó, giao Chính phủ quy định các trường hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài chỉ cần đáp ứng hai điều kiện như trên.
Liên quan trình tự giải quyết hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam, dự thảo Luật sửa đổi bổ sung theo hướng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài sẽ có trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất việc giải quyết hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam về Bộ Tư pháp (không qua Bộ Ngoại giao) để bảo đảm cắt giảm quy trình giải quyết thủ tục hành chính.