Hoạt động tại Vietcombank chi nhánh Hà Nội. Ảnh minh họa. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Báo cáo của Công ty Chứng khoán MBS cho thấy, từ đầu năm đến nay, các ngân hàng đã phát hành trái phiếu với tổng giá trị 96.200 tỷ đồng, tăng 140% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 65% tổng giá trị trái phiếu phát hành trên thị trường. Lãi suất bình quân đạt 5,4%/năm, với kỳ hạn trung bình là 4 năm.
Một số ngân hàng ghi nhận lượng phát hành lớn như Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã phát hành 17.000 tỷ đồng, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) 12.700 tỷ đồng và Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) 8.900 tỷ đồng.
Riêng trong tháng 7, Ngân hàng TMCP Công Thương (VietinBank) đã phát hành 3.000 tỷ đồng với kỳ hạn 120 tháng, lãi suất 6,1%, Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) phát hành 2.000 tỷ đồng với kỳ hạn 36 tháng, lãi suất 6% và Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank) phát hành 1.000 tỷ đồng với kỳ hạn 96 tháng, lãi suất 7,47%.
Việc phát hành trái phiếu nhằm củng cố nguồn vốn trung và dài hạn của các ngân hàng là cần thiết trong bối cảnh nhu cầu tín dụng tăng cao. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, tính đến ngày 28/6, tín dụng nền kinh tế đã đạt trên 14,3 triệu tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2023 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng đạt mức 14% cho cả năm. Điều này đặc biệt quan trọng khi các doanh nghiệp đang cần vốn để sản xuất và kinh doanh, nhất là khi nhập khẩu tư liệu sản xuất đang phục hồi nhờ sự khởi sắc của các thị trường chính.
Trái phiếu ngân hàng được đánh giá là an toàn hơn so với các ngành nghề khác, với lãi suất dài hạn 3-5 năm ổn định ở mức 5-6%. Đồng thời, trái phiếu ngân hàng cũng thu hút đầu tư dài hạn nhờ lãi suất cạnh tranh và thanh khoản cao hơn so với trái phiếu doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch Công ty CP FiinGroup nhấn mạnh, để đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15-16% trong năm 2024, các ngân hàng cần đảm bảo có đủ vốn. Tuy nhiên, hệ số an toàn vốn của nhiều ngân hàng hiện tại vẫn chưa đủ mạnh để đạt được mục tiêu này. Do đó, phát hành trái phiếu cấp 2 được coi là giải pháp khả thi hơn so với việc tăng vốn cổ phần.
Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện một số biện pháp hỗ trợ, bao gồm kéo dài thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho các khách hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn hiện đã gần đạt giới hạn tối đa 30% theo quy định, đặt ra thách thức cho việc huy động vốn dài hạn.
Nhóm chuyên gia của Ngân hàng HSBC nhận định rằng các yếu tố chu kỳ kinh tế toàn cầu đang có dấu hiệu cải thiện, với tăng trưởng lợi nhuận và các ngân hàng trung ương có xu hướng cắt giảm lãi suất, tạo cơ hội đầu tư từ cổ phiếu và trái phiếu chất lượng. Mặc dù lạm phát của Việt Nam đang tiến gần mức trần 4,5% và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tạm hoãn kế hoạch cắt giảm lãi suất, đồng USD mạnh lên trong ngắn hạn, nhưng điều này có thể thay đổi tùy thuộc vào chính sách của các ngân hàng trung ương trên thế giới.
Trong bối cảnh này, việc duy trì và tăng cường phát hành trái phiếu của các ngân hàng là một động thái cần thiết để đảm bảo nguồn vốn ổn định và đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Điều này không chỉ giúp các ngân hàng cải thiện sức mạnh tài chính mà còn góp phần ổn định thị trường tài chính và kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Việc các ngân hàng đẩy mạnh phát hành trái phiếu trong thời gian qua đã chứng minh vai trò quan trọng của thị trường này trong việc huy động vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định và bền vững, các ngân hàng cần thực hiện quản lý rủi ro chặt chẽ và tuân thủ các quy định an toàn vốn. Đồng thời, sự điều chỉnh linh hoạt của các chính sách tiền tệ cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển của nền kinh tế.
Theo LÊ PHƯƠNG (Báo Tin Tức)