Theo ông Thái, trong báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2024, Việt Nam có 847 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước. Trong đó, báo cáo về tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2024 của 819 doanh nghiệp (bao gồm 677 DNNN và 142 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước) cho thấy, tổng tài sản đạt 4.336 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với đầu năm 2024. Tổng doanh thu đạt 2.931 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023.
Lợi nhuận trước thuế đạt 256 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2023. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân chung là 13% (năm 2023 là 12%); Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản bình quân chung là 6%.
DNNN là lực lượng nòng cốt đóng góp hơn 29% GDP.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước cũng đạt kết quả kinh doanh tích cực. Tổng doanh thu hợp nhất ước đạt 1.070 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế là 82,1 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước đạt 102,7 nghìn tỷ đồng.
Nhiều dự án được khai thông tháo gỡ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế như: Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1; chuỗi dự án khí - điện Lô B - Ô Môn; Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4; mở rộng kho LNG Thị Vải; Nhà máy lọc dầu Dung Quất mở rộng; các dự án điện Long Phú 1...
Đối với các DNNN thuộc lĩnh vực ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước quản lý, tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong hệ thống tài chính Việt Nam, cung ứng vốn tín dụng và trung gian thanh toán cho nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Vì sao đóng góp của DNNN vào GDP suy giảm?
Về đóng góp của DNNN vào tăng trưởng GDP, TS. Hà Huy Ngọc - Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới - cho biết, năm 2005, khu vực này chiếm 37,6% GDP nhưng đến năm 2023, con số này giảm xuống 21,03%.
Sự sụt giảm mạnh nhất diễn ra trong giai đoạn 2009 - 2010, khi giảm từ 34,7% xuống 24,18%. Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lại có xu hướng gia tăng tỷ trọng, lần lượt chiếm 50,42% và 20,29% GDP năm 2023, so với mức chỉ 15,16% năm 2005.
“Nguyên nhân chủ chốt của sự suy giảm này chủ yếu do khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng thu hẹp cùng với sự phát triển, mở rộng của nền kinh tế. Thực hiện chính sách tái cơ cấu và cổ phần hóa DNNN, từ năm 2011, Chính phủ đã triển khai hàng loạt chính sách nhằm giảm sự phụ thuộc vào DNNN và tăng cường hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thông qua khu vực tư nhân”, TS Ngọc nhận định.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023), từ năm 2011 đến 2023, hơn 500 doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa, bao gồm những tập đoàn lớn như: Sabeco, Vinamilk và một số ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ. Việc cổ phần hóa giúp giảm gánh nặng tài chính cho Nhà nước, nhưng đồng thời cũng làm giảm vai trò của DNNN trong nền kinh tế. Khi các DNNN bị thu hẹp hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân sau cổ phần hóa, giá trị đóng góp vào GDP của khu vực này giảm, dẫn đến tỷ trọng GDP của khu vực Nhà nước cũng giảm tương ứng.
Cùng với quá trình cổ phần hóa DNNN, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đã phát triển mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua. Các doanh nghiệp tư nhân có lợi thế hơn so với DNNN trong việc thích nghi với thị trường, nâng cao năng suất lao động và thu hút vốn đầu tư, điều này làm giảm vai trò của khu vực Nhà nước trong nền kinh tế.
Ngoài ra, chính sách khuyến khích khởi nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chính phủ đã giúp gia tăng đáng kể số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả.
Không chỉ khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp FDI cũng ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế. Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt sau khi ký kết các hiệp định thương mại tự do quan trọng như EVFTA, CPTPP và RCEP. Kết quả là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã mở rộng nhanh chóng, chiếm 20,29% GDP vào năm 2023, so với chỉ 15,16% GDP vào năm 2005.
Dòng vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghệ cao, giúp gia tăng năng suất lao động và đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, khu vực kinh tế Nhà nước lại chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực truyền thống như xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng và tài chính công, dẫn đến sự giảm sút tỷ trọng so với hai khu vực còn lại.
Mặc dù tỷ trọng trong GDP giảm, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế Nhà nước vẫn duy trì ở mức tương đối ổn định, dao động từ 3 - 6%/năm. Tuy nhiên, so với khu vực tư nhân và khu vực FDI, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế Nhà nước thấp hơn rõ rệt. Trong giai đoạn 2005 - 2023, tăng trưởng trung bình hàng năm của khu vực Nhà nước là 4,5%, trong khi khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt 6,5% và khu vực FDI đạt 8 -10%.
Đặc biệt, đại dịch COVID-19 có tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, bao gồm cả khu vực kinh tế Nhà nước. Trong giai đoạn 2020 - 2021, tốc độ tăng trưởng của khu vực Nhà nước giảm xuống còn 3,97% năm 2020 và 4,09% năm 2021, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của những năm trước đó.
Nguyên nhân chính là do nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực vận tải, du lịch và năng lượng chịu ảnh hưởng nặng nề từ các biện pháp giãn cách xã hội và sự gián đoạn chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, nhờ vào các chính sách hỗ trợ từ chính phủ và việc đẩy mạnh đầu tư công, khu vực này đã phục hồi vào năm 2022 với tốc độ tăng trưởng đạt 8,86%.
“Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế Nhà nước đã có sự phục hồi nhẹ. Năm 2022, tốc độ tăng trưởng đạt 8,86%, cao hơn đáng kể so với mức trung bình của khu vực này trong giai đoạn trước đó. Trong tương lai, vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước có thể tiếp tục thu hẹp về tỷ trọng, nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chiến lược như cơ sở hạ tầng, năng lượng và tài chính công. Việc cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này sẽ là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam”, ông Ngọc nhận định.



Đọc nhiều