Chế biến thủy sản xuất khẩu tại Công ty cổ phần xuất khẩu Thủy sản 2 Quảng Ninh (AQUA PEXCO). Ảnh: TRẦN TUẤN
Vượt qua dịch bệnh
Dịch Covid-19 bùng phát ngay những tháng đầu năm 2020 đã ngay lập tức gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, từ việc tắc nghẽn vận chuyển hàng hóa qua biên giới, đến tác động làm gián đoạn chuỗi cung nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất nhiều loại hàng hóa trong nước. Tiếp đó, kể từ quý II đến nay, dịch bệnh lan rộng ra khu vực các nước châu Âu, châu Mỹ và vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả. Nhiều thị trường xuất khẩu quan trọng của nước ta đến nay vẫn áp dụng các biện pháp phong tỏa cho nên ảnh hưởng rất lớn tới tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dệt may, da giày... Trước tình hình đó, ngay từ giai đoạn đầu của dịch bệnh, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương liên quan đã quyết liệt chỉ đạo thực thi nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn nhằm bảo đảm công tác phòng, chống dịch, vừa hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của dịch bệnh tới XNK. Cụ thể, để khơi thông luồng vận chuyển hàng hóa, các bộ, ngành đã khẩn trương, liên tục hướng dẫn, thông báo cập nhật diễn biến tình hình trong nước và khu vực biên giới cho các địa phương, hiệp hội ngành hàng, DN nhằm tránh ảnh hưởng đến tốc độ thông quan và gây ùn ứ tại khu vực cửa khẩu biên giới; tổ chức các đoàn công tác tại các tỉnh biên giới để điều tiết hoạt động thương mại và thông quan hàng hóa. Bộ Công thương đã kiến nghị và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tiếp tục hoạt động XNK, vận chuyển hàng hóa qua các cửa khẩu phụ trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Bộ cũng thường xuyên trao đổi và thống nhất về các giải pháp với phía Trung Quốc, nhất là các biện pháp cụ thể của hải quan hay các lực lượng chức năng của phía bạn để tìm cách tháo gỡ khó khăn, khắc phục tình trạng ùn ứ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nhờ đó, hoạt động XNK tại các cửa khẩu biên giới phía bắc đã được khôi phục từ rất sớm. Để giải quyết khó khăn về thị trường, các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã đồng loạt tìm kiếm những mặt hàng mới mà thị trường đang có nhu cầu mạnh trong bối cảnh Covid-19 như khẩu trang kháng khuẩn, đồ bảo hộ, buồng khử khuẩn toàn thân được coi là phương án thay thế tốt trong bối cảnh xuất khẩu các mặt hàng dệt may gặp khó khăn. Mặt khác, nhiều giải pháp, cách làm mới đã được các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và cộng đồng DN triển khai, trong đó phải kể đến các mô hình, chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu cả trong và ngoài nước trên môi trường trực tuyến và dựa trên những nền tảng mới. Theo đó, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tổ chức hội nghị giao thương trực tuyến trong bối cảnh Covid-19.
Đặc biệt, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Cùng với đó, việc phổ biến thông tin hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng hóa trước và sau khi EVFTA có hiệu lực đã hỗ trợ DN Việt Nam tận dụng lợi ích do hiệp định mang lại ngay từ những ngày đầu thực thi. Thực tế, EVFTA đã trở thành “cú huých” rất lớn cho xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh khó khăn chung của năm 2020. Liên tục từ tháng 8 tới nay, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU ghi nhận mức tăng cao: kim ngạch xuất khẩu (KNXK) sang thị trường EU các tháng 8, 9, 10 lần lượt đạt 3,25 tỷ USD, 3,07 tỷ USD và 3,3 tỷ USD; tăng 4,2%, 8,7% và 6,3% so cùng kỳ năm 2019. Tính từ ngày 1-8 đến ngày 18-12, các cơ quan, tổ chức được ủy quyền cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp hơn 62.493 bộ C/O với kim ngạch hơn 2,35 tỷ USD đi các nước EU. Các DN xuất khẩu hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ với trị giá gần 6 triệu USD được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA.
Chính nhờ hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch cũng như các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, hoạt động XNK của Việt Nam năm vừa qua đã vượt khó, đạt nhiều kết quả tích cực. Theo số liệu liên Bộ, KNXK 2020 ước đạt 280 tỷ USD, tăng 5,9% so năm trước; xuất siêu đạt khoảng 19,1 tỷ USD. Tám mặt hàng đạt KNXK hơn 10 tỷ USD và 31 mặt hàng đạt kim ngạch hơn một tỷ USD. Kết quả này là tương đối ấn tượng khi so sánh với các quốc gia trong khu vực đều có tăng trưởng xuất khẩu âm hoặc không tăng trưởng. Điểm sáng khác là sự tăng trưởng của các mặt hàng mới, bù đắp sụt giảm của các mặt hàng truyền thống, cụ thể như: đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận ước đạt 2,89 tỷ USD, tăng 48,7% so năm 2019; sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ ước đạt 2,49 tỷ USD, tăng 47,6%... Một số mặt hàng có KNXK tăng mạnh như máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác ước đạt 26,74 tỷ USD, tăng 46,1%; gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 12,3 tỷ USD, tăng 15,7%; mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 44,3 tỷ USD, tăng 23,2%...
Bám sát các thị trường đối tác lớn
Diễn biến dịch bệnh tại các thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn khó đoán định. Do vậy, Bộ Công thương sẽ thông qua hệ thống thương vụ, cơ quan đại diện thương mại tại nước ngoài để tiếp tục theo sát diễn biến tình hình thị trường, nhất là tình hình phòng, chống dịch Covid-19 ở các thị trường đối tác lớn, quan trọng của Việt Nam nhằm kịp thời đề xuất, báo cáo Chính phủ; chủ động triển khai các biện pháp nhằm tận dụng cơ hội thị trường, giảm khó khăn, tác động bất lợi đối với hoạt động XNK của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong năm tới cũng có một số thuận lợi nhất định. Đó là các biện pháp thực thi EVFTA đã và đang mang lại kết quả bước đầu rất tích cực. Sản xuất trong nước được khôi phục. Một số nước dự kiến triển khai các gói kích thích kinh tế hậu Covid-19, qua đó có thể thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu hàng hóa trong năm 2021.
Theo các chuyên gia, bước sang năm 2021, xuất khẩu cùng với vốn đầu tư toàn xã hội và tiêu dùng nội địa vẫn sẽ là “cỗ xe tam mã” của nền kinh tế, là động lực chính để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Cục trưởng Cục XNK (Bộ Công thương) Phan Văn Chinh chia sẻ, để tận dụng các cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, thời gian tới cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp: Thứ nhất, tập trung rà soát pháp luật trong quá trình thực thi các FTA để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, các nội dung đã cam kết, bảo đảm tính nhất quán của hệ thống luật pháp. Thứ hai, tăng cường phổ biến về nội dung cam kết, công việc cần triển khai cho các DN dưới nhiều hình thức đổi mới, sáng tạo hơn thông qua phương tiện truyền thông, trang thông tin điện tử, các ấn phẩm, tài liệu, chương trình phát thanh và truyền hình hoặc các lớp tập huấn, hội thảo; xây dựng các đầu mối hỗ trợ để thực thi hiệu quả; liên kết đầu mối thực thi tại các bộ, ngành và địa phương. Thứ ba, nghiên cứu kỹ lưỡng từng mặt hàng tại thị trường cụ thể, từ đó định hướng DN về các ngành hàng có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường này, thông tin về nhu cầu nhập khẩu của các nước và định hướng hoạt động xúc tiến thương mại. Thứ tư, xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, kết hợp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cho các ngành hàng, DN, phù hợp cam kết quốc tế; hỗ trợ DN Việt Nam tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Thứ năm, sử dụng hiệu quả các công cụ phù hợp cam kết quốc tế, nhất là phòng vệ thương mại và phòng, chống gian lận xuất xứ. Triển khai các chương trình, đề án lớn về phòng vệ thương mại, phòng, chống gian lận xuất xứ nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các ngành sản xuất trong nước, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy sản xuất trong nước, duy trì việc làm cho người lao động. Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm thời gian, chi phí cho DN. Trong dài hạn, để bảo đảm được tăng trưởng bền vững cho xuất khẩu, yếu tố then chốt nhất vẫn là tiếp tục tái cơ cấu sản xuất, cải tiến chất lượng sản phẩm đi liền với cắt giảm chi phí vận hành để đưa ra thị trường các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ.
Theo CHÍ CÔNG (Nhân Dân)