Điều kiện được chia thừa kế
Khoản 1, Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định điều kiện thực hiện quyền thừa kế QSDĐ: Có GCNQSDĐ, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2013; đất không có tranh chấp; QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; trong thời hạn sử dụng đất.
Ngoài ra, theo Điểm c, Khoản 3, Điều 167, Luật Đất đai 2013, văn bản về thừa kế QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người để lại di sản là QSDĐ nhưng không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất thì vẫn có thể để lại di sản thừa kế.
Đất không có "sổ đỏ" vẫn có thể chia thừa kế
Theo Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đối với đất do người đã mất để lại (mà người đó đã có giấy chứng nhận) thì quyền sử dụng đất đó là di sản. Đối với trường hợp đất do người đã mất để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp người đã mất để lại quyền sử dụng đất (mà đất đó không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất, nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với đất đó) mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì được phân biệt như sau: Trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp GCNQSDĐ (đủ điều kiện cấp giấy) thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất đó. Trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của cơ quan thầm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với đất.
Trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó. Như vậy, cho dù đất vẫn chưa có "sổ đỏ", "sổ hồng", nhưng nếu quyền sử dụng đất được xác định là di sản, thì vẫn có thể được chia di sản thừa kế theo quy định.
Chia thừa kế như thế nào?
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, có 2 loại thừa kế: Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Chia thừa kế theo di chúc căn cứ theo Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Đồng thời, tại Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc có quyền: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế; chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Như vậy, nếu di chúc hợp pháp, việc chia thừa kế là quyền sử dụng đất được phụ thuộc vào nội dung di chúc. Tuy nhiên, khi có người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định Khoản 1, Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, thì di sản sẽ được chia lại để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
Chia thừa kế theo pháp luật thì căn cứ theo quy định tại Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
K.N