Đánh thức tiềm năng phát triển đất “Chín Rồng”

24/05/2024 - 07:14

 - Định hướng lâu dài của Trung ương là xây dựng ĐBSCL trở thành nơi đáng sống đối với người dân, là điểm đến hấp dẫn đối với du khách và nhà đầu tư, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bản sắc văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) bền vững. Bên cạnh đầu tư tương xứng để vực dậy tiềm năng, lợi thế, cần phát huy hiệu quả liên kết vùng, đánh thức sức mạnh của từng địa phương để tạo động lực đưa đất “Chín Rồng” vươn tầm cao mới.

Thời cơ xen thách thức

Thời kỳ 2021 - 2025, vùng ĐBSCL nhận được sự quan tâm đặc biệt của Trung ương cho định hướng phát triển. Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết 13-NQ/TW, ngày 2/4/2022 về “Phương hướng phát triển KTXH, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, được xem là chủ trương mang tính xuyên suốt, nhất quán, lâu dài cho vùng.

Trước đó, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 287/QĐ-TTg, ngày 28/2/2022 phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, mang tính kế thừa Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, vốn ra đời sau “Hội nghị Diên Hồng của vùng ĐBSCL”.

Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ Nguyễn Phương Lam cho rằng, nội dung Quy hoạch vùng ĐBSCL do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính công bố ngày 21/6/2022 tại TP. Cần Thơ nổi lên các điểm sáng “2 nhất, 3 trụ cột, 4 mới”.

Theo đó, “2 nhất” vì đây là bản quy hoạch tích hợp cấp vùng đầu tiên của cả nước được lập theo Luật Quy hoạch, được tổ chức công bố dưới sự chủ trì của Thủ tướng. “3 trụ cột” phát triển bền vững vùng, bao gồm: KTXH và môi trường, được xây dựng trên nền tảng văn hóa bản địa, lấy con người làm trung tâm, coi tài nguyên nước là cốt lõi, chuyển đổi mô hình sinh kế theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các tác động ngoại cảnh cũng như quản trị tốt các yếu tố nội vùng. Trong khi đó, “4 mới” được tích hợp từ “Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới”.

Vùng ĐBSCL có lợi thế lớn về nông nghiệp

Việc công bố Quy hoạch vùng ĐBSCL được lồng ghép với triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị; Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng; xúc tiến, kêu gọi đầu tư; quảng bá hình ảnh, vùng đất, văn hóa, con người ĐBSCL; công bố cam kết tài trợ của nhóm 6 ngân hàng. Đây được xem là “hội nghị hành động” để tạo ra nguồn lực mới hiện thực hóa quy hoạch của vùng.

Ông Nguyễn Phương Lam cho biết, Quy hoạch vùng ĐBSCL được triển khai với 5 lĩnh vực trọng tâm (hỗ trợ phát triển nông nghiệp; phát triển du lịch - dịch vụ; kết cấu hạ tầng kỹ thuật; hạ tầng xã hội; bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học) và 7 nhóm giải pháp (cơ chế, chính sách đảm bảo liên kết vùng; huy động nguồn vốn đầu tư; giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; quản lý, kiểm soát phát triển đô thị và nông thôn; tổ chức thực hiện; giám sát thực hiện quy hoạch). Sau hơn 2 năm triển khai, Quy hoạch vùng ĐBSCL đạt được 3 kết kết quả nổi bật về: Triển khai thực hiện quy hoạch, xây dựng, hoàn hiện cơ chế, chính sách liên kết vùng; huy động nguồn lực đầu tư; triển khai thực hiện các giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực.

Trong đó, việc huy động nguồn lực đầu tư là kết quả nổi bật đáng ghi nhận từ sau khi phê duyệt Quy hoạch tổng thể vùng. Minh chứng cho kết quả này là hàng loạt các công trình đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi (dự án hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1); khởi công các tuyến giao thông huyết mạch, như: Cao tốc Bắc Nam phía Đông, đoạn Cần Thơ - Cà Mau dài 109,5km, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng dài 188km, cao tốc Cao Lãnh - An Hữu dài 27km... “Các tuyến cao tốc và công trình giao thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tháo các điểm nghẽn, mở ra không gian phát triển mới, tạo xung lực mới cho vùng” - ông Lam đánh giá.

Tuy nhiên, thách thức của vùng vẫn còn tồn tại, đặc biệt là trong liên kết vùng, mới xác định “làm gì”, chưa xác định rõ “làm như thế nào”, thời điểm nào là kết thúc. Ngoài ra, cần phải tháo gỡ nút thắt về thể chế, cơ chế điều phối vùng (cấp độ Trung ương và vùng), cơ chế tích tụ đất đai, quan điểm về sứ mệnh an ninh lương thực, việc quản trị tài nguyên phân mảnh, chuỗi giá trị chia cắt, cụm ngành thiếu hoàn chỉnh, thị trường tài chính kém phát triển...

Liên kết vào thực chất

Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ Trần Việt Trường cho rằng, thời gian qua, ĐBSCL đã hình thành đa dạng các liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, như: Liên kết theo chuỗi giá trị; liên kết ngành, cụm ngành hàng chủ lực; liên kết theo chuỗi sản xuất và chế biến; liên kết hướng đến thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; liên kết vận tải - logistics; liên kết công nghệ thông tin. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là liên kết theo ngành, cụm ngành hàng chủ lực (thủy sản, lúa gạo, cây ăn trái, rau màu), nhưng hiệu quả không cao, thiếu tính bền vững, vẫn còn tình trạng “bẻ kèo” hợp đồng khi giá cả thị trường thay đổi; các hình thức liên kết còn lại chỉ dừng ở giai đoạn thử nghiệm. Do vậy, việc hình thành các chuỗi liên kết giá trị có tính chuyên nghiệp cao là rất cần thiết, làm hạn chế việc mất đồng bộ về cung - cầu, khắc phục tính dễ bị tổn thương, gây đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa. 

Trong sản xuất nông nghiệp, vùng ĐBSCL luôn thiếu hụt nguồn cung ứng giống cây trồng chất lượng, thiếu năng lực kỹ thuật, quản lý của người nông dân, cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp chưa được đầu tư đồng bộ. Trong khi đó, việc chế biến và gia công sản phẩm nông nghiệp là khâu yếu nhất. Các nhà máy chế biến chưa đáp ứng được nhu cầu của nguồn nguyên liệu đến từ nông dân, gây lãng phí và giảm giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Vùng ĐBSCL đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tiêu thụ. Các kênh phân phối chưa được phát triển, rất khó tiếp cận các kênh bán lẻ. Đặc biệt, ĐBSCL thiếu cơ chế, chính sách để thu hút doanh nghiệp lớn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ chế biến nông sản nên chưa tạo được động lực phát triển vùng, dù có lợi thế về sản xuất nông nghiệp.

Tăng cường kết nối vùng ĐBSCL

Quy hoạch vùng ĐBSCL chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao; xây dựng và phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực của vùng. Theo Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ Trần Việt Trường, vùng ĐBSCL cần tập trung xây dựng, phát triển 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp, trong đó Trung tâm đầu mối tổng hợp ở TP. Cần Thơ gắn với phát triển dịch vụ logistics ở Hậu Giang để góp phần bổ trợ cho TP. Cần Thơ thực hiện vai trò là Trung tâm logistics của toàn vùng.

Đồng thời, xây dựng 7 trung tâm đầu mối có chức năng thu gom, phân loại và chế biến nông sản, gồm: 2 trung tâm tại vùng sinh thái ngọt (thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo) tại tỉnh An Giang và Đồng Tháp; 3 trung tâm đầu mối tại tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng gắn với thủy sản; 2 trung tâm đầu mối tại tỉnh Tiền Giang, Bến Tre gắn với trái cây, rau màu.

Với vai trò là đô thị trung tâm của vùng ĐBSCL, TP. Cần Thơ đang xúc tiến thành lập Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, được xem là động lực thúc đẩy phát triển vùng ĐBSCL. Trung tâm dự kiến có diện tích 300ha (50ha tại quận Bình Thủy và 250ha tại huyện Cờ Đỏ), xây dựng theo mô hình “Một điểm đến đa dịch vụ”, 10 chức năng hoạt động, áp dụng cơ chế đặc thù (theo Nghị quyết 45/NQ-QH của Quốc hội dành cho TP. Cần Thơ) để thực hiện hình thức ưu đãi, thu hút đầu tư.

Vai trò trung tâm điều phối

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Trúc Sơn cho biết, trong tiến trình phát triển của vùng ĐBSCL, liên kết vùng là vấn đề hết sức quan trọng, mang tính tất yếu. Nhằm đưa chủ trương liên kết phát triển đi vào thực tiễn, các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã tiến hành liên kết với nhau để hình thành các tiểu vùng: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau...

Riêng chương trình hợp tác ABCD Mekong (gồm 4 tỉnh An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp) phát huy được hiệu quả thực tế trong thời gian qua, đặc biệt là nâng tầm Diễn đàn Mekong Connect - diễn đàn kinh tế thường niên lớn nhất vùng ĐBSCL, có sự tham gia của TP. Hồ Chí Minh, thời gian tới là các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Năm 2018, 4 tỉnh: Bến Tre - Tiền Giang - Vĩnh Long - Trà Vinh đã ký Biên bản ghi nhớ về xây dựng và triển khai thực hiện Đề án liên kết phát triển toàn diện Tiểu vùng duyên hải phía Đông ĐBSCL, với 8 lĩnh vực liên kết, đang dần phát huy hiệu quả.

Ngày 11/3/2023, tại TP. Bến Tre (tỉnh Bến Tre), Bản thỏa thuận chương trình hợp tác phát triển KTXH giữa TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đến năm 2025 được lãnh đạo các địa phương ký kết, với 6 lĩnh vực hợp tác trọng tâm. Từ đó, giúp kết nối doanh nghiệp, xúc tiến mời gọi đầu tư; kết nối giao thương, kết nối cung - cầu; kết nối, phát triển tuyến điểm du lịch; khoa học và công nghệ; y tế…

Có thể thấy, dựa trên Quy hoạch vùng ĐBSCL, các tỉnh, thành phố trong vùng đều đang nỗ lực xây dựng các mối liên kết, hợp tác để khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Tuy nhiên, về mặt tổng thể, cần tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 974/QĐ-TTg, ngày 19/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL; phát huy vai trò của Hội đồng điều phối vùng để chủ động xây dựng và phối hợp triển khai hoạt động liên kết vùng một cách tổng thể, đồng bộ.

Nhằm đảm bảo hiệu quả triển khai thực hiện Quy hoạch vùng ĐBSCL, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thị Minh Thúy kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm, hỗ trợ về nguồn lực đầu tư, đặc biệt đối với các dự án kết nối hạ tầng, tạo mạng lưới thông suốt kết nối các tỉnh, thành phố trong vùng. Trong đó, phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng chuyên canh, kết nối với các đô thị có vai trò là trung tâm cấp vùng, tiểu vùng và các đầu mối hạ tầng quốc gia, liên vùng. Từ đó, xây dựng vùng ĐBSCL là nơi cung cấp các dịch vụ về logistics, nghiên cứu phát triển, đào tạo chuyển giao công nghệ, thu gom, chế biến sâu, ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.

Trong triển khai xây dựng các trung tâm đầu mối liên kết về: Logistics (TP. Cần Thơ - tỉnh Hậu Giang); thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo (tỉnh An Giang, Đồng Tháp); thủy sản (tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng); trái cây, rau màu (tỉnh Tiền Giang, Bến Tre)... vai trò hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) rất quan trọng. Bộ NN&PTNT cần định hướng các tỉnh ĐBSCL phối hợp triển khai chuỗi liên kết, hình thành chợ đầu mối, trung tâm cung ứng nông sản hiện đại.

Đồng thời, xây dựng giải pháp toàn diện về logistics nông nghiệp của vùng ĐBSCL, gồm: Toàn bộ các khâu từ khâu lập kế hoạch, dự báo, hỗ trợ mua hàng, sản xuất, phân phối logistics chủ động, kết nối đa kênh tới thị trường tiêu thụ, trong đó chú trọng đến giải pháp tích hợp trực tiếp và trực tuyến, kết nối tiêu thụ, hình thành Trung tâm giao dịch nông sản trực tiếp (chợ bán sỉ hiện đại), kết nối với mạng lưới cung ứng nông sản toàn cầu...

Trong triển khai thực hiện Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng ĐBSCL, liên kết với TP. Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; mở rộng giao thương với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong.
Định hướng của vùng ĐBSCL là phát triển hệ thống kết cấu giao thông vận tải đa phương thức kết nối liên vùng và quốc tế, trong đó chú trọng phát huy thế mạnh của vùng về giao thông thủy nội địa. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 830km đường bộ cao tốc, khoảng 4.000km đường quốc lộ, 4 cảng hàng không, 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy nội địa.


NGÔ CHUẨN