Đề nghị giữ nguyên số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách

11/02/2020 - 14:45

Sáng 11-2, Phiên họp thứ 42 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (TVQH) đã cho ý kiến về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.


Quang cảnh Phiên họp thứ 42 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN.

Theo Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, nội dung tiếp thu, chỉnh lý trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội 9 nội dung về: Tiêu chuẩn về quốc tịch đối với đại biểu Quốc hội (ĐBQH); việc quyết định số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Đoàn ĐBQH; luật hóa quy định về đánh giá, phân loại đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương; thay hình thức văn bản kết luận bằng nghị quyết phiên họp Ủy ban TVQH; giữ số lượng Hội đồng, Ủy ban nhưng đề nghị đổi tên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng thành Ủy ban Văn hóa, Giáo dục; giữ quy định vế số lượng cấp phó tại Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội như hiện nay; gắn quyền đăng ký tham gia làm thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của ĐBQH với trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ thành viên Hội đồng, các Ủy ban; bổ sung quy định về hình thức hoạt động của ĐBQH hoạt động chuyên trách; quy định kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Đoàn ĐBQH do ngân sách trung ương bảo đảm.  

Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự thảo Luật, nhiều ý kiến của ĐBQH tại kỳ họp thứ 8 cho rằng, phạm vi sửa đổi, bổ sung như dự thảo Luật còn hẹp, chủ yếu tập trung vào cụ thể hóa các nội dung trong Nghị quyết số 18/NQ-TW mà chưa khắc phục được những hạn chế, vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện Luật thời gian qua, đề nghị cần đổi mới một cách căn bản việc thực hiện cả 3 chức năng lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước; cách thức tổ chức, hoạt động của Quốc hội, đổi mới việc tổ chức bầu cử và xác định nhiệm kỳ của Quốc hội...

Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ban soạn thảo thấy rằng, đây đều là các ý kiến tâm huyết, có lập luận, cơ sở rõ ràng, tuy nhiên, Quốc hội đã quyết định sẽ xem xét, thông qua dự án Luật này tại kỳ họp thứ 9 sắp tới, thời gian chuẩn bị không còn nhiều, nên nếu nghiên cứu để sửa đổi một cách căn bản Luật như các đề xuất nêu trên sẽ không bảo đảm tiến độ trình thông qua.

Mặt khác, nhiều nội dung đề xuất lại liên quan trực tiếp đến các quy định của Hiến pháp năm 2013 và quy định của nhiều đạo luật khác nữa. Do đó, đề nghị Ủy ban TVQH cho phép chỉ nghiên cứu, đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Tổ chức Quốc hội trong phạm vi khuôn khổ quy định của Hiến pháp, có tính khả thi cao, có thể thực hiện được ngay. Các nội dung khác xin được tiếp tục nghiên cứu để báo cáo vào thời điểm thích hợp hơn. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị Đảng đoàn Quốc hội báo cáo Bộ Chính trị chưa trình sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV vì thời điểm này đã sắp hết nhiệm kỳ.     

Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ban soạn thảo nhận thấy việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội lần này là để thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 18-NQ/TW và Kế hoạch số 07-KH/TW của Bộ Chính trị. Việc trình Quốc hội thông qua dự án Luật tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020) đã là chậm so với yêu cầu về tiến độ nêu trong Kế hoạch 07-KH/TW. Nếu tiếp tục nghiên cứu, chưa trình Quốc hội xem xét việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XIV thì cần phải báo cáo lại với Bộ Chính trị và có những giải pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện các nội dung đã được xác định trong Nghị quyết trung ương và đồng bộ với các luật về tổ chức bộ máy mới được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 (như việc tổ chức bộ máy giúp việc các Đoàn ĐBQH).  

Về tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách, bên cạnh nhiều ý kiến tán thành quy định tỷ lệ ít nhất là 35% tổng số ĐBQH như hiện nay, thì cũng có không ít ý kiến đề nghị nâng tỷ lệ này lên mức 37%, 40% tổng số ĐBQH hoặc cao hơn nữa. Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ban soạn thảo xin thể hiện thành hai phương án: Phương án 1 là giữ quy định về tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách ít nhất là 35% tổng số ĐBQH (175 đại biểu) như trong Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành. Phương án 2 quy định tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số ĐBQH (200 đại biểu).  

Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế của từng phương án, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ban soạn thảo tán thành phương án 1.

Về cơ cấu ĐBQH, có ý kiến đề nghị cần có chính sách thu hút các đồng chí nguyên là cán bộ, công chức, viên chức có kinh nghiệm công tác lâu năm, có năng lực, trí tuệ, gần đến tuổi nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu nhưng còn đủ điều kiện về sức khỏe tham gia làm ĐBQH hoạt động chuyên trách. Không khống chế độ tuổi tối đa của ĐBQH hoặc kéo dài tuổi làm việc của ĐBQH hoạt động chuyên trách lên mức cao hơn (65 - 67 tuổi) so với quy định của Bộ luật Lao động để phát huy tối đa trí tuệ, kinh nghiệm của đại biểu.

Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ban soạn thảo nhận thấy đây là một đề xuất có tính tích cực cao, cần được xem xét. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của pháp luật thì ĐBQH hoạt động chuyên trách là chức danh cán bộ, thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức, nên nếu có quy định riêng về tuổi làm việc đối với ĐBQH thì cần được tính toán để thể hiện ngay trong Luật Tổ chức Quốc hội.  

Về việc chuyển các Ban thuộc Ủy ban TVQH thành cơ quan chuyên môn của Quốc hội nhiều ý kiến đề nghị nghiên cứu, đánh giá đầy đủ để chuyển Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện thành cơ quan chuyên môn (Ban) thuộc Quốc hội để bảo đảm tính đồng bộ về loại hình tổ chức và yêu cầu chuyên môn hóa đối với bộ máy tham mưu, giúp việc Quốc hội. Tuy nhiên, cũng có ý kiến chưa nhất trí việc nâng cấp các Ban này thành các cơ quan thuộc Quốc hội vì chưa đủ lập luận về sự cần thiết.  

Hiện tại, Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện đã có Đề án chuyển Ban Công tác đại biểu, Ban Dân nguyện thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội gửi Ủy ban TVQH và kiến nghị bổ sung vào Luật Tổ chức Quốc hội quy định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Theo đó, Ban Tổ chức đại biểu dân cử là cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội, có chức năng tham mưu, giúp việc Quốc hội, trực tiếp và thường xuyên là Ủy ban TVQH, về công tác đại biểu dân cử và tổ chức bộ máy, nhân sự của Quốc hội, Ủy ban TVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Quốc hội, Ủy ban TVQH và Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật. Ban Dân nguyện là cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội, có chức năng tham mưu, giúp Quốc hội, Ủy ban TVQH về công tác dân nguyện.  

Theo Thường trực Ủy ban Pháp luật, qua nghiên cứu, thảo luận bước đầu về Đề án của các Ban, đa số ý kiến tán thành với sự cần thiết chuyển Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội như những lý do nêu trong các Đề án; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thuộc Quốc hội cơ bản vẫn là các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đang thực hiện theo Nghị quyết của Ủy ban TVQH.

Tuy nhiên, để có cơ sở tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật Tổ chức Quốc hội, đề nghị làm rõ hơn một số nhiệm vụ, quyền hạn còn có sự giao thoa, chưa rõ ràng với các cơ quan khác, giữa Ban Tổ chức đại biểu dân cử với Ủy ban TVQH, Tổng Thư ký Quốc hội, Hội đồng Bầu cử quốc gia, thành viên Hội đồng Bầu cử quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội. Hay giữa Ban Dân nguyện với Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, Ban Tổ chức đại biểu dân cử, Văn phòng Quốc hội… Việc bổ sung quy định về các cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội trong Luật Tổ chức Quốc hội cần được cân nhắc, đánh giá một cách thận trọng, củng cố thêm lập luận thuyết phục để bảo đảm phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết Trung ương về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.  

Bên cạnh đó, vẫn có ý kiến còn băn khoăn đề nghị trong các Đề án cần làm rõ hơn nữa về cơ sở lý luận và thực tiễn của sự cần thiết chuyển Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện thành các cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội. Bởi khi Ủy ban TVQH quyết định thành lập các Ban, mục đích chủ yếu là để tham mưu, giúp Ủy ban TVQH thực hiện một số công việc về công tác dân nguyện và công tác cán bộ liên quan trực tiếp đến ĐBQH thuộc thẩm quyền của Ủy ban TVQH.

Nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất hoạt động của các Ban không có sự độc lập như Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội mà luôn theo sự phân công, lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban TVQH để trực tiếp tham mưu và giúp Ủy ban TVQH thực hiện một số công việc cụ thể.

Chính vì vậy, Luật Tổ chức Quốc hội giao Ủy ban TVQH quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban này là phù hợp. Nếu chuyển các Ban thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội trong khi tổ chức bộ máy vẫn giữ nguyên, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thuộc Quốc hội cơ bản vẫn như hiện nay thì cần phân tích, làm rõ hơn vị trí pháp lý cũng như cơ chế, cách thức hoạt động của các Ban, trong đó đánh giá kỹ mối quan hệ trong việc tổ chức, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban với các cơ quan khác như Ủy ban TVQH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để bảo đảm tương xứng với tính chất, vị thế mới và khả năng thực tế của bộ máy. 

Theo VIẾT TÔN (Báo Tin tức)