Đột phá thể chế kinh tế, khởi tạo làn sóng FDI thứ tư
24/08/2025 - 08:13
Từ năm 1988 đến nay, trải qua gần bốn thập kỷ, dù cũng có những nhịp thăng trầm, nhưng nhìn tổng thể, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn đang chảy mạnh vào Việt Nam.
AA
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam có nhiều lợi thế để đón sóng đầu tư FDI. (Ảnh: HẢI THANH)
Tờ Financial Times, số ra tháng 2/2025 đánh giá, Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trung bình khoảng 7%/năm kể từ năm 1990 đến nay, trong đó FDI là động lực hết sức quan trọng.
Những dấu mốc không thể nào quên
Trong gần 40 năm thu hút FDI, tính từ ngày 9/1/1988, thời điểm Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, giai đoạn 1988-2000 được coi là giai đoạn khởi động, với giấy phép đầu tư FDI đầu tiên được cấp tại Bà Rịa-Vũng Tàu (năm 1988).
Từ năm 1991, đặc biệt là sau ngày 3/2/1994, ngày mà Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, dòng vốn FDI bắt đầu tăng nhanh, số dự án và vốn đăng ký liên tục lập kỷ lục mới. Doanh nhân Đỗ Cao Bảo, Ủy viên Hội đồng quản trị, đồng sáng lập Tập đoàn FPT nhớ lại, không khí thời ấy thật sôi nổi, khi các hãng công nghệ thông tin Mỹ như: IBM, DEC, HP, Compaq, Microsoft, Oracle… nô nức đến Việt Nam để gặp gỡ, tìm hiểu, đánh giá, tìm đối tác… “Thời ấy, hãng IBM còn là hãng công nghệ lớn nhất thế giới, là biểu tượng về công nghệ của nước Mỹ. Khi lập hãng IBM Việt Nam, họ đã cử ba lãnh đạo người Mỹ gốc Âu từ Mỹ sang trực tiếp phụ trách IBM Việt Nam. Những bài học về kinh doanh, mô hình quản trị khách hàng đầu tiên mà chúng tôi học được chính là từ họ”, ông Bảo chia sẻ.
Cũng trong giai đoạn này, GDP của Việt Nam tăng bình quân 7,56%/năm, trong đó GDP năm 2000 cao gấp 2,07 lần năm 1990. Đây chính là “làn sóng” FDI thứ nhất: còn chút dè dặt, nhưng đầy hứng khởi.
Giai đoạn 2001-2010, tổng vốn đăng ký, vốn thực hiện lần lượt gấp 3,32 và 2,85 lần so giai đoạn 1991-2000. Khu vực FDI đóng góp quan trọng vào chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Năm 2006, Việt Nam có những dự án tỷ USD đầu tiên từ nhà sản xuất chip Intel (Mỹ) và tập đoàn thép Posco (Hàn Quốc). Năm 2008, lượng vốn đăng ký lập kỷ lục gần 72 tỷ USD. Đây cũng là năm Samsung, nhà đầu tư FDI lớn nhất hiện nay tại Việt Nam, bắt đầu xây dựng nhà máy đầu tiên tại Bắc Ninh, đánh dấu làn sóng thứ hai.
Trong làn sóng thứ ba (giai đoạn 2011-2020), tổng vốn đăng ký đạt 270,69 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 152,3 tỷ USD - không có bước nhảy vọt như những năm 2005-2008 mà gia tăng đều đặn. Phương thức mua bán và sáp nhập (M&A), bắt đầu từ năm 2014, dần trở thành xu hướng đầu tư mới. Năm 2020, đại dịch Covid-19 xảy ra đã tạo nên độ “hẫng” bất khả kháng đối với kinh tế toàn cầu. Nhưng kinh tế Việt Nam nói chung và dòng vốn FDI vào Việt Nam nói riêng, đã không rơi vào suy thoái. Trong giai đoạn 2021-2023, tổng vốn FDI đăng ký đạt 94,98 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 65,32 tỷ USD. Khu vực FDI đóng góp 16,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2023. Một số tập đoàn lớn như Apple, Dell, Foxconn, Pegatron, Nike… đã dịch chuyển chuỗi cung ứng, sản xuất sang Việt Nam. Nhiều tập đoàn điện tử, bán dẫn lớn như Samsung, Synopsys, Qualcomm, Infineon, Amkor, Nvidia... tiếp tục mở rộng hoạt động hợp tác, đầu tư. Đây là những dấu hiệu lạc quan của “làn sóng thứ tư”. Và thực tế là năm 2024, FDI đăng ký đạt mức 38,23 tỷ USD, vốn FDI thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến thời điểm đó. Năm 2025, tính đến ngày 30/6, tổng vốn đăng ký đạt 21,52 tỷ USD, tăng tới 32,6% so với cùng kỳ năm trước; vốn FDI thực hiện ước đạt 11,72 tỷ USD, là mức cao nhất của sáu tháng đầu năm trong cả giai đoạn 2021-2025.
Quang cảnh Nhà máy Samsung SEV tại Bắc Ninh.
Tất nhiên, bức tranh FDI không chỉ có gam màu sáng. Đã có những dự án khổng lồ mãi chỉ nằm trên giấy: Thép Guang Lian (Đài Loan-Trung Quốc) ở KKT Dung Quất, Quảng Ngãi từng có số vốn đăng ký vống lên tới 4,5 tỷ USD, nhưng rồi bị thu hồi giấy phép đầu tư vào năm 2016. Siêu dự án Nam Vân Phong (Khánh Hòa) có số vốn cam kết từ 6-8 tỷ USD đã dừng triển khai…
Mặc dù FDI thúc đẩy tăng trưởng và tạo việc làm, nhưng tấm huy chương nào cũng có mặt trái: đã từng có những vụ khủng hoảng môi trường, trốn thuế, lách luật gắn liền với nhiều doanh nghiệp FDI. Cuộc tranh luận về tính liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa; công nghệ hiện đại lẽ ra phải được chuyển giao cho doanh nghiệp trong nước; những cơ hội mà doanh nghiệp nội địa lẽ ra có được… đã và chắc chắn vẫn còn tiếp tục.
Kỳ vọng vào làn sóng FDI thứ tư
Không nghi ngờ gì, khu vực FDI đã đóng góp tích cực cho kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1995, thị phần đóng góp cho xuất khẩu Việt Nam của doanh nghiệp trong nước và FDI lần lượt là 73% và 27%. Tỷ lệ này hiện nay đã đảo ngược, với thị phần của khối FDI chiếm hơn 70%. Nếu như những ngày đầu, phần lớn nguồn vốn được đầu tư vào lĩnh vực gia công dệt may và giày dép có giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động, thì tính lũy kế đến hết năm 2024, tỷ trọng vốn đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo đã lên đến gần 50%.
Để phát huy động lực này, Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 đã đặt ra nhiều mục tiêu xa hơn, trong đó có việc nâng cao tỷ lệ vốn đầu tư từ Hoa Kỳ, tăng 50% số lượng tập đoàn đa quốc gia thuộc nhóm 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới do Tạp chí Fortune (Hoa Kỳ) xếp hạng có hiện diện và hoạt động tại Việt Nam…
Để đẩy được “làn sóng thứ tư” lên cao trào, yêu cầu tiên quyết là đột phá thể chế kinh tế.
TS Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài
Để đạt được những mục tiêu này, đẩy được “làn sóng thứ tư” lên cao trào, TS Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính) nhấn mạnh yêu cầu tiên quyết là đột phá thể chế kinh tế. Theo ông, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 chính là một đột phá như vậy khi đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ tài chính và cải cách hành chính, giúp rút ngắn thủ tục đầu tư và cấp phép. Đồng thời góp phần làm cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn với các tập đoàn FDI hoạt động trong các lĩnh vực như bán dẫn, công nghệ số, và các ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Bên cạnh đó, thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp và viện nghiên cứu tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), nghị quyết giúp nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất và ứng dụng công nghệ mới. Nghị quyết cũng khuyến khích việc thiết lập các liên kết, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, giúp kết nối Việt Nam với các nguồn lực, công nghệ và thị trường toàn cầu; đặt ra yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng hệ thống giám sát, đánh giá định kỳ hiệu quả sử dụng vốn trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Công ty TNHH Hệ thống dây dẫn Sumi Việt Nam (SVWS), doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhật Bản tại KCN Đồng Văn II (Ninh Bình). (Ảnh: TRẦN HẢI)
Lẽ dĩ nhiên, để nghị quyết thật sự “ngấm” vào cuộc sống, còn rất nhiều việc phải làm. Đơn cử, một khi công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa phát triển đủ nhanh, việc đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ cao và đưa các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam hợp tác với FDI chưa được quan tâm đúng mức, thì cho dù nhà đầu tư FDI có thiện chí đi nữa, việc chuyển giao công nghệ “lõi” cũng không khả thi.
Rõ ràng, công cuộc tạo dựng và củng cố một môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng và dễ dự đoán cần tiếp tục mạnh mẽ hơn nữa. Trong xu hướng “số hóa” mạnh mẽ, toàn bộ quá trình đầu tư, từ đăng ký, cấp phép đến vận hành dự án cần được thực hiện thông qua một nền tảng số quốc gia, tích hợp thông tin chính xác về quy hoạch, chi phí logistics, chính sách đất đai. Cùng với đó là xây dựng cho được đội ngũ cán bộ công chức “vừa hồng vừa chuyên”, đáp ứng tốt yêu cầu công việc, yêu cầu của công cuộc đổi mới cấp bách hiện nay.
Và nếu những yếu tố này được triển khai, phối hợp nhịp nhàng, dòng vốn FDI nhất định sẽ tiếp tục chảy mạnh.
Theo Nhandan.vn
Mọi phản ánh, ý kiến, tin, bài và hình ảnh cộng tác của độc giả có thể gửi đến Báo An Giang theo địa chỉ: