Giải đua ngựa xã Na Hối, huyện Bắc Hà mở rộng lần thứ nhất nằm trong hoạt động Lễ hội mùa đông Bắc Hà 2020. Ảnh minh họa: Quốc Khánh/TTXVN
Lễ hội đua ngựa Bắc Hà là lễ hội truyền thống của các dân tộc huyện Bắc Hà. Lễ hội này được diễn ra thường niên vào tháng 6 hằng năm tại sân vận động của thị trấn Bắc Hà. Lễ hội đua ngựa có nguồn gốc từ tập quán nuôi ngựa, thuần dưỡng ngựa để phục vụ nhu cầu vận chuyển, phát triển kinh tế của cộng đồng. Lễ hội còn được bắt nguồn từ phong tục diễu hành ngựa qua các con đường của thị trấn, các thôn bản nhằm thể hiện tình cảm của cộng đồng với con vật hết sức thân quen của mình và cũng là để báo hiệu thời gian nghỉ ngơi đã hết, bắt đầu cho một mùa canh tác mới. Lễ hội đua ngựa ở Bắc Hà được duy trì đến cuối thế kỷ XIX, sau đó bị gián đoạn trong một thời gian dài do chiến tranh. Tháng 6-2008, Lễ hội đua ngựa Bắc Hà chính thực được khôi phục trở lại trên cơ sở lễ hội rước ngựa xưa của đồng bào và hội đua ngựa.
Trang phục của người Mông Hoa về cơ bản gồm có bộ trang phục nam giới và nữ giới. Trong đó, Bộ trang phục cổ truyền của người phụ nữ Mông Hoa chính là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật trang trí. Bộ trang phục cổ truyền của người phụ nữ Mông Hoa gồm có: khăn, áo xẻ ngực, váy, tấm vải che phía trước váy, sau váy, thắt lưng, xà cạp. Họa tiết hoa văn trên áo, váy của người Mông Hoa chủ yếu là các hoa văn hình học. Tên gọi các mẫu hoa văn có có tính chất ước lệ, thấy hoa văn gần giống vật gì quen thuộc trong đời sống là người dân dùng tên vật đó để gọi tên hoa văn như: rau dớn, khóa đuôi ngựa, chân gà, hoa hướng dương, hoa đào… Ngoài ra, còn có một số hoa văn hình học phân bố xen cài bên nhau tôn thêm vẻ đẹp cho họa tiết chính như: hình tam giác, hình răng cưa, đường viền, đường nhánh… Trong các họa tiết nổi bật là hoa văn hình xoắn ốc từng cặp đôi, cặp bốn được trang trí nhiều trên cổ áo, tay áo, gấu váy.
Bộ trang phục của người Nùng Dín được trang trí bằng các đồ chạm bạc. Tính thẩm mỹ còn được sáng tạo thông qua kỹ thuật thêu, ghép vải, ghép hạt cườm bằng kim loại, bằng bạc… Hoa văn trang trí trên trang phục thể hiện tín ngưỡng và thế giới quan của tộc người thông qua những biểu tượng sùng bái tự nhiên như mặt trời, nguồn nước gắn với tập quán canh tác nông nghiệp. Nghệ thuật trang trí phản ánh triết lý âm dương của tộc người, biểu hiện tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp thông qua biểu tượng nước, nguồn sống của con người có đôi, có cặp phần nào thể hiện sự đầy đàn, sự phồn thịnh. Ngoài ra, còn có sự xuất hiện của một số loại động vật (chim phượng, đàn cá) như: hoa văn song phượng ở vòng cổ, hoa văn con chim được ghép vào một cúc áo, những cặp đôi hình cá được xếp tạo thành một dải trên hoa tai…
Nghề làm tranh thờ gắn liền với đời sống tâm linh hết sức phong phú và huyền bí, linh thiêng của người Dao Đỏ. Do đó, để có thể làm ra được bộ tranh thờ đúng theo quy định, đảm bảo các yếu tố tín ngưỡng thì toàn bộ công việc từ khi làm ra giấy dó, hồ giấy vẽ, tạo màu, cho đến những kiêng kị trong quá trình vẽ tranh... đều phải trải qua một quy trình nghiêm ngặt, bất cứ thầy vẽ nào cũng buộc phải tuân thủ. Người Dao Đỏ có nhiều nghề thủ công nhưng nghề làm tranh thờ là một trong những nghề thủ công độc đáo nhất, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, phản ánh thế giới đa tầng, tâm linh, tín ngưỡng, thậm chí là tính triết lý, triết học thể hiện trên từng bức tranh thờ. Nghề làm tranh thờ ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của tộc người, phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày và nhu cầu tâm linh của họ. Bộ tranh thờ đều gắn liền với các thầy cúng, thầy tào… Tranh thờ bổ trợ cho các thầy khi các thầy đi thực hành lễ cấp sắc, chấu đàng…
Từ xưa, tranh thờ và bộ tranh thờ đã trở thành sản phẩm hàng hóa đặc biệt bởi ý nghĩa, giá trị về mặt tâm linh của đồng bào Dao Đỏ. Có thể nói, trong suốt quá trình hình thành và phát triển của người Dao nói chung và người Dao Đỏ nói riêng, tranh thờ luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Các bức tranh thờ đều mang những giá trị riêng, thể hiện rất rõ vị trí và vai trò của tín ngưỡng thờ Đạo giáo trong cộng đồng người Dao Đỏ. Đây cũng được xem là yếu tố quan trọng giúp người Dao không tin và đi theo các loại tôn giáo khác. Qua quá trình nghiên cứu cho thấy, tranh thờ người Dao Dỏ là một loại hình di sản văn hóa độc đáo, với nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mĩ, tín ngưỡng, giáo dục...
Với việc công bố thêm 4 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia sẽ góp phần tạo thuận lợi cho công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy di sản văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn Lào Cai.
Theo HỒNG NINH (TTXVN)