
Thứ nhất, thông qua hệ thống chức danh gắn với chuẩn nghề nghiệp nhà giáo, phù hợp từng cấp học và trình độ đào tạo, Luật Nhà giáo chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo. Theo đó, các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập được áp dụng. Lần đầu tiên, vị trí pháp lý của nhà giáo ngoài công lập được xác lập đầy đủ, đồng bộ với tư cách nhà giáo, chứ không chỉ là người lao động theo cơ chế hợp đồng lao động. Như vây, áp dụng chuẩn nghề nghiệp gắn với từng chức danh sẽ góp phần tạo mặt bằng chất lượng cho đội ngũ nhà giáo, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận giáo dục chất lượng giữa các loại hình của nhà trường. Thứ hai, luật làm rõ quyền và nghĩa vụ của nhà giáo theo hướng tăng quyền chủ động, sáng tạo và tăng tính bảo vệ nhà giáo trong hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời, thông qua quyền và những điều không được làm của cá nhân, tổ chức liên quan đối với nhà giáo, thiết lập các chế tài bảo vệ nhà giáo. Đặc biệt, khi chưa có kết luận của cơ quan có thẩm quyền, việc đăng tải, phát tán thông tin mang tính quy kết trách nhiệm nhà giáo là vi phạm pháp luật, góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.
Điểm mới thứ ba quy định, người có đủ năng lực gắn với chuẩn nghề nghiệp nhà giáo, đáp ứng hoạt động nghề nghiệp theo từng cấp học, trình độ đào tạo mới được tuyển dụng và nhà giáo bảo đảm có thực hành sư phạm. Điểm mới thứ tư quy định các chính sách điều động, thuyên chuyển, biệt phái, dạy liên trường, liên cấp đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập. Cơ sở pháp lý này “tạo khung chung” cho ngành giáo dục phân công, bố trí đội ngũ phù hợp với yêu cầu thực tế, góp phần quan trọng giải quyết tình trạng thừa thiếu nhà giáo cục bộ ở các cấp học. Ở điểm mới thứ năm quy định, chính sách tiền lương, đãi ngộ, hỗ trợ, tạo điều kiện ở mức tốt nhất cho nhà giáo. Cụ thể, có chính sách thu hút, trọng dụng người tài năng, trình độ cao, có năng khiếu, kỹ năng đặc biệt trong nhề giáo. Điểm mới thứ sáu giao quyền chủ động cho ngành giáo dục trong tuyển dụng, sử dụng nhà giáo. Luật quy định, người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập được tự chủ tuyển dụng nhà giáo. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định về thẩm quyền tuyển dụng nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên. Bộ GD&ĐT chủ trì phối hợp các bộ, ngành, địa phương xây dựng chiến lược, đề án, kế hoạch phát triển, tổng biên chế đội ngũ nhà giáo thuộc thẩm quyền quản lý trình cấp có thẩm quyền quyết định; đề xuất cơ quan có thẩm quyền phê duyệt số lượng biên chế nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập.
Về chế độ tiền lương và đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo, Cục trưởng Cục Nhà giáo và quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT) Vũ Minh Đức thông tin, Luật Nhà giáo là đạo luật chuyên ngành đầu tiên quy định đầy đủ về vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và các chính sách dành cho đội ngũ nhà giáo. Cơ quan soạn thảo cụ thể hóa những chủ trương của Đảng, Nhà nước, đặc biệt về chính sách tiền lương. Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 23 quy định: Lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, Bộ GD&ĐT dự thảo nghị định quy định chính sách tiền lương, phụ cấp, chế độ hỗ trợ, thu hút đối với nhà giáo. Dự thảo dự kiến tham mưu Chính phủ sắp xếp lại bảng lương cho một số chức danh: Giáo viên mầm non, phổ thông, dự bị đại học, giáo dục nghề nghiệp hạng IV… để bảo đảm thống nhất bảng lương áp dụng với các chức danh nghề nghiệp viên chức nhà giáo và viên chức các ngành, lĩnh vực khác, bảo đảm mức sống của nhà giáo, giúp họ an tâm công tác, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Đồng thời, hệ số lương đặc thù từ 1,1 - 1,6 sẽ được áp dụng tùy theo cấp học, trình độ đào tạo, bảo đảm lương nhà giáo cao hơn so với viên chức cùng bảng lương ở các lĩnh vực khác, thu hẹp khoảng cách giữa giáo viên trẻ và giáo viên lâu năm. Luật Nhà giáo còn dành nhiều nội dung cụ thể để thu hút và bảo đảm công bằng với nhà giáo làm việc trong điều kiện khó khăn. Cụ thể, Điểm c, Khoản 1, Điều 23, Luật Nhà giáo quy định: “Nhà giáo cấp học mầm non; nhà giáo công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nhà giáo dạy trường chuyên biệt; nhà giáo thực hiện giáo dục hòa nhập; nhà giáo ở một số ngành, nghề đặc thù được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn"…
Cùng với 6 điểm mới, Luật Nhà giáo (9 chương, 42 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) còn quy định hai chính sách nghỉ hưu đặc thù đối với nhà giáo. Thứ nhất, giáo viên mầm non có nguyện vọng có thể nghỉ hưu sớm hơn tuổi quy định trong điều kiện bình thường. Quy định này đáp ứng nguyện vọng, tâm tư của đội ngũ giáo viên mầm non và được sự đồng thuận cao. Thứ hai, nhà giáo có học hàm giáo sư, phó giáo sư, trình độ tiến sĩ hoặc làm trong ngành, lĩnh vực chuyên sâu có thể nghỉ hưu trễ hơn so quy định. Chính sách này cụ thể hóa chủ trương thu hút và giữ chân đội ngũ nhà khoa học năng lực cao, giảng viên giảng dạy các ngành chiến lược theo chủ trương của Đảng tại Nghị định 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây cũng là cơ sở để Bộ GD&ĐT ban hành hoặc tham mưu Chính phủ ban hành các quy định, hướng dẫn chi tiết về tiền lương, chế độ ưu đãi, thể hiện sự chăm lo của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với giáo viên.
N.R