Bị giật hụi, giải quyết như thế nào?

31/07/2023 - 06:29

 - Theo Điều 471, Bộ luật Dân sự 2015, hụi được xem là một giao dịch dân sự hợp pháp, là giao dịch về tài sản theo tập quán, trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh hụi và quyền, nghĩa vụ của các thành viên. Tuy nhiên, cần làm gì khi chủ hụi mất khả năng thanh toán cho hụi viên khi đến hạn, dẫn đến hành vi “giật hụi”?

Trách nhiệm của chủ hụi chậm giao phần hụi

Theo quy định Khoản 3, Điều 4, Nghị định 19/2019/NĐ-CP, chủ hụi là người tổ chức, quản lý dây hụi, thu hụi và giao các phần đó cho thành viên được lĩnh hụi trong mỗi kỳ mở hụi cho tới khi kết thúc dây hụi. Chủ hụi có thể là thành viên của dây hụi. Có thể chia thành 2 trường hợp giật hụi. Thứ nhất, chủ hụi không có khả năng thanh toán, nhưng không bỏ trốn. Theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4, Điều 18, Nghị định 19/2019/NĐ-CP quy định về nghĩa vụ của chủ hụi, gồm: Giao các phần hụi cho thành viên lĩnh hụi tại mỗi kỳ mở hụi và nộp thay phần hụi của thành viên (nếu đến kỳ mở hụi mà có thành viên không góp phần hụi, trừ trường hợp có thỏa thuận khác).

Theo đó, đến kỳ mở hụi, mà chủ hụi vì bất cứ lý do gì không thanh toán cho thành viên được lĩnh hụi, cũng như không có thỏa thuận bằng văn bản khác, bị xem là giật hụi. Thứ 2, nghiêm trọng hơn, chủ hụi cố tình không thanh toán và bỏ trốn. Ở trường hợp này, chủ hụi trong bất kỳ giai đoạn nào của dây hụi, thông thường là sau khi gom được tiền lĩnh hụi của hụi viên được lĩnh trong kỳ mở hụi đó, cố tình không thanh toán và bỏ trốn nhằm chiếm hoạt tiền hụi.

Điều 23, Nghị định 19/2019/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của chủ hụi do đến kỳ mở không giao hoặc giao không đầy đủ các phần hụi cho thành viên được lĩnh hụi. Đó là thực hiện đúng nghĩa vụ quy định tại Khoản 3 và 4, Điều 18 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP; trả lãi đối với số tiền chậm giao cho thành viên được lĩnh hụi theo quy định tại Khoản 1, Điều 22 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP. Bên cạnh, chủ hụi còn có thể bị xử phạt hành chính, mức phạt từ 2 - 5 triệu đồng đối với hành vi không giao các phần hụi cho thành viên lĩnh hụi tại mỗi kỳ mở hụi, theo điểm đ, Khoản 1, Điều 16, Nghị định 144/2021/NĐ-CP.

Truy cứu trách nhiệm hình sự trường hợp chủ hụi bỏ trốn

Nếu đến kỳ mở hụi và đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, chủ hụi cố ý bỏ trốn do cố tình không thanh toán, không giao phần hụi cho thành viên lĩnh hụi, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 35, Điều 1 Bộ luật Hình sự 2017 (sửa đổi). Theo đó, người nào thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng (hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội này, hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều 171, Điều 172, Điều 173, Điều 174 và Điều 290 của Bộ luật hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ) thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Cụ thể: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng, nhưng cố tình không trả; vay, mượn, thuê tài sản của người khác, hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 - 7 năm: Có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, thì bị phạt tù từ 5 - 12 năm. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 - 20 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất, quy mô dây hụi mà chủ hụi bỏ trốn cố tình không thanh toán phần hụi cho thành viên lãnh hụi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị phạt tù lên đến 12 năm; phạt tiền lên đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

THIÊN PHÚC