Liên quan đến vụ án trên, Cơ quan ANĐT Bộ Công an đã chuyển hồ sơ sang VKS nhân dân Tối cao, đề nghị truy tố Nguyễn Hồng Anh và Nguyễn Thị Ngà về tội “Tham ô tài sản”. Nguyễn Hồng Anh còn bị truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Quá trình điều tra xác định, Công ty liên doanh Container Vinashin- TGC (VTC), nay là Công ty Cổ phần Container Quốc tế CAS, gọi tắt là CAScon được thành lập theo quyết định số 2533/ GP của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, do Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Tập đoàn Vinashin) góp 55 % vốn liên doanh với Công ty Toong Goen Enterprise Co., Ltd (Đài Loan) góp 45 % vốn.
Tập đoàn Vinashin là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập vào năm 2006. Đến ngày 21-10-2013, Bộ Giao thông Vận tải có Quyết định số 3287 tổ chức lại Công ty mẹ và một số đơn vị thanh viên của Tập đoàn Vinashin thành Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (SBIC).
Ngày 30-6-2010, Tập đoàn Vinashin ký hợp đồng chuyển nhượng 30 % vốn điều lệ tại VTC cho Công ty Best MingMei Technology Development Conpany Pte. LTD (Best MingMei) giá trị chuyển nhượng là 1.654.500 USD. Đến ngày 10-9-2010, VTC thay đổi nội dung giấy chứng nhận đầu tư, đổi tên thành Công ty cổ phần Container Quốc tế CAS (CAScon).
Sau khi chuyển nhượng cổ phần cho Công ty Best MingMei, Tập đoàn Vinashin còn 25% vốn góp; Nguyễn Hồng Anh có 15% vốn góp; Công ty Best MingMei có 60% vốn góp. Đến ngày 13-3-2012, SBIC còn 8,89% vốn góp tại Công ty CAScon.
Đối tượng Nguyễn Hồng Anh.
Để quản lý phần vốn góp tại Công ty VTC, ngày 15-7-2008, Tập đoàn Vinashin ký quyết định cử ông Nguyễn Quốc Ánh, Tổng giám đốc kinh doanh; bà Phạm Thu Hằng, Trưởng ban Kinh doanh đối ngoại; ông Đoàn Văn Hạnh, Phó trưởng Ban Tổ chức cán bộ của Tập đoàn Vinashin tham gia Hội đồng quản trị (HĐQT) Công ty VTC, trong đó ông Nguyễn Quốc Ánh là Chủ tịch HĐQT.
Ngày 23-7-2018, ông Nguyễn Quốc Ánh, ký quyết định bổ nhiệm Nguyễn Hồng Anh làm Tổng giám đốc. Thực hiện các nhiệm vụ của Tổng giám đốc và được sự ủy quyền của hội đồng quản trị, Nguyễn Hồng Anh đã chỉ đạo việc tổ chức sản xuất container; ký hợp đồng với các đối tác, vay vốn, ra quyết định bổ nhiệm và chỉ đạo các thành viên ban lãnh đạo và các đơn vị trực thuộc VTC thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Ngày 1-1-2009, Nguyễn Hồng Anh ký Quyết định số 14B, bổ nhiệm Nguyễn Thị Ngà làm trưởng phòng Sale &Marketing VTC với nhiệm vụ quản lý các đơn hàng, soát xét các dự thảo hợp đồng (bán hàng, đấu thầu) trước khi trình Giám đốc kinh doanh và Tổng giám đốc để thương thảo các hợp đồng bán hàng... Đến ngày 28-10-2010, Nguyễn Hồng Anh ký quyết định bổ nhiệm Nguyễn Thị Ngà làm trưởng phòng kinh doanh.
Ngày 27-4-2010, Công ty United Arab Shipping Company (UASC) có thủ tục mới thầu, đề nghị VTC sản xuất, bán 10 nghìn container cho UASC. Đối tượng Nguyễn Hồng Anh đã ký thư đề nghị UASC thỏa thuận sản xuất, bán số container cho UASC. Trong đó có 1.000 container VTC bán trực tiếp cho UASC, không chiết khấu. Còn lại 9.000 container sẽ xuất bán qua VTC ở nước ngoài, UASC được chiết khấu 1,5%... Để có nguồn vốn thực hiện đơn hàng với UASC, VTC đã phải vay vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB).
Theo các thủ tục mà ngân hàng quy định, Hồng Anh đã chỉ đạo Ngà soạn thảo, ký hợp đồng số 1005/SNI-VTC ngày 12-6-2010 giữa VTC và Công ty Sunny Investment International Limited (SNI) cùng các phụ lục hợp đồng kèm theo để làm hồ sơ vay vốn. Trên thực tế, công ty này không phải là VTC Hồng Kông theo thỏa thuận và biên bản ghi nhớ trước đó giữa VTC và UASC mà là công ty do Hồng Anh thành lập và làm Giám đốc...
Quá trình điều tra, Cơ quan ANĐT Bộ Công an xác định: Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, Nguyễn Hồng Anh đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Tổng giám đốc, được HĐQT Công ty VTC giao tổ chức, điều hành việc sản xuất, bán 9000 container cho Công ty UASC đã chiếm đoạt tiền của Công ty VTC. Cụ thể, sau khi được VCB cho vay vốn và đã thực hiện xong việc sản xuất, giao hàng và đã được bên mua hàng (UASC) chuyển trả hết tiền nhưng Nguyễn Hồng Anh đã có hành vi gian dối.
Cụ thể, đối tượng chỉ đạo Nguyễn Thị Ngà ký ở phần đại diện Công ty SNI trong hợp đồng với UASC số 100611- 2/ SNI- UASC, yêu cầu Công ty UASC chuyển tiền thanh toán cho Công ty VTC về tài khoản của Công ty SNI. Việc làm này, Hồng Anh không báo cáo HĐQT. Sau khi VCB có yêu cầu, đối tượng tìm cách đối phó bằng cách không chuyển tiền trả về Công ty VTC (CAScon) để trả nợ cho VCB.
Căn cứ tài liệu do Công ty CAScon cung cấp về hạch toán công nợ giữa CAScon, SNI hiện nay và chứng từ chuyển tiền thanh toán cho đơn hàng 9.000 container theo hợp đồng 100611 do Công ty UASC cung cấp, Cơ quan ANĐT Bộ Công an có cơ sở xác định số tiền Nguyễn Hồng Anh đã chiếm đoạt của CAScon trong việc thực hiện sản xuất đơn hàng 9.000 container bán cho UASC hơn 20 triệu USD.
Về phần Nguyễn Thị Ngà, đối tượng đã không làm đúng chức trách, nhiệm vụ được giao là tiếp nhận thông tin khách hàng, quản lý các đơn hàng, soát xét các dự thảo hợp đồng (bán hàng, đấu thầu...). Thực hiện theo sự chỉ đạo của Nguyễn Hồng Anh, đối tượng đã có hành vi gian dối, lấy tên là “Jenifer Nguyen” và “Maria Tsai” ký vào mục đại diện cho SNI để hợp thức hóa tài liệu (Hợp đồng, phụ lục hợp đồng, thư xác nhận nợ), tạo điều kiện giúp Nguyễn Hồng Anh chiếm đoạt số tiền bán hàng do UASC trả cho VTC.
Cơ quan ANĐT Bộ Công an xác định, Nguyễn Thị Ngà đã tiếp nhận sự chỉ đạo của Nguyễn Hồng Anh, tham gia vào quá trình dự thảo văn bản, thỏa thuận ký các hợp đồng, phụ lục hợp đồng các tài liệu mà Nguyễn Thị Ngà đã ký danh nghĩa đại diện SNI, trong đó khi ký hợp đồng 1005/SNI- VTC để vay vốn ngân hàng và sử dụng công khai tại Công ty VTC để sản xuất container nên Ngà lấy tên là “Maria Tsai” theo chỉ đạo của Hồng Anh mà không lấy tiền thật cũng như tên thường dùng ở VTC khi giao dịch quốc tế là “Jennifer Nguyen” (tên này được Ngà sử dụng để ký hợp đồng 100611-2/ SNI-UASC, là hợp đồng không công khai tại VTC), đây là thủ đoạn để che giấu vi phạm tội.
Với chức năng, nhiệm vụ và trình độ chuyên môn, Ngà biết trách nhiệm, quyền hạn của mình tại Công ty VTC. Khi được Nguyễn Hồng Anh chỉ đạo làm không đúng quy định của pháp luạt thì phải báo cáo HĐQT và cấp trên nhưng Ngà đã bỏ mặc, vẫn làm theo các chỉ đạo trái pháp luật của Nguyễn Hồng Anh. Khi ký đại diện SNI, Ngà biết quy định của pháp luật về ủy quyền đại diện (phải bằng văn bản).
Trong khi Ngà không có chức trách nhiệm vụ gì tại SNI và không có văn bản ủy quyền của công ty này cũng không biết Công ty SNI có các hợp đồng giao dịch, kinh doanh gì với VTC nhưng vẫn thực hiện chỉ đạo của Hồng Anh ký vào phần đại diện SNI, trong các hợp đồng mua bán container giữa VTC và UASC...
Nguyễn Thị Ngà biết việc UASC đã chuyển tiền vào tài khoản của SNI nhưng theo chỉ đạo của Hồng Anh vẫn lập email, ký vào các thư thể hiện là người đại diện của SNI, đề nghị VTC (CAScon) gia hạn thời hạn thanh toán, không trả tiền về cho VTC (CAScon). Trong quá trình thực hiện, Ngà biết Nguyễn Hồng Anh cố tình điều chỉnh dòng tiền UASC thanh toán cho đơn hàng 9.000 container không trả về VTC nhưng vẫn thực hiện theo chỉ đạo của Hồng Anh, tạo điều kiện để Hồng Anh chiếm đoạt được tiền bán hàng của VTC.
Trong thời gian thực hiện chỉ đạo của Nguyễn Hồng Anh đối với các sai phạm trên, từ tháng 5-2010 đến tháng 2-1011, Công ty F. W Sunny Way Enterprise Co. Ltd, Công ty NeoTech Container Industrial Corp, Công ty SNI chuyển vào tài khoản của Ngà tại HSBC Việt Nam 25 nghìn USD. Ngà thừa nhận đây là tiền do Nguyễn Hồng Anh trả.
Ngoài số tiền trên, Nguyễn Hồng Anh còn chuyển vào tài khoản của Hoàng Mạnh Long (chồng của Ngà) hơn 25 nghìn USD, như vậy tổng cộng số tiền là trên 50 nghìn USD... Căn cứ vào các tài liệu Cơ quan ANĐT xác định, Nguyễn Hồng Anh đã chiếm đoạt hơn 439 tỷ đồng Ngà được chia hơn 1 tỷ đồng.
Kết luận điều tra cũng làm rõ trách nhiệm của thành viên HĐQT, Ban giám đốc Công ty liên doanh Container Vinashin - TGC (CAScon) trong quá trình điều hành, quản lý công ty. Với các tài liệu trong hồ sơ vụ án, không có đủ cơ sở xác định các cá nhân có liên quan đồng phạm với Nguyễn Hồng Anh.
Theo XUÂN ANH (Công An Nhân Dân)