Người dân các nước Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam tỏ ra lo lắng trước tác động của các đập thủy điện trên dòng Mekong tại một diễn đàn do Việt Nam đăng cai tổ chức
Vùng hạ lưu Mekong bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các đập thủy điện
Nỗi lo chồng chất nỗi lo
Là người dân sống ở tỉnh Chiang Rai (thuộc miền Đông Bắc của Thái Lan), chịu tác động trực tiếp từ những thay đổi của dòng Mekong, ông Som Kiat Knunsangsa nói thẳng: “Từ khi Trung Quốc tiến hành xây dựng hàng loạt đập thủy trên thượng nguồn sông Mekong, môi trường sống của chúng tôi thay đổi hẳn. Có những thay đổi mà bao đời nay chúng tôi chưa từng nghĩ tới”.
Ông Som Kiat Knunsangsa cho biết, mực nước luôn ở mức thấp là nguyên nhân khiến nhiều loài thực vật tự nhiên không phát triển được, các vườn cây cặp dòng sông không còn trù phú, lượng thủy sản sụt giảm, một số loài chim kiếm ăn từ thảm thực vật dần biến mất. “Trước đây, người dân đi dọc theo các bờ sông hái rau cũng bán được hơn 1.000 Bath/ngày nhưng giờ còn rất ít. Hồi trước, có hơn 1.000 tàu thuyền đánh bắt cá thì giờ còn chưa tới 300 chiếc” - ông Som Kiat lo lắng. Ông chia sẻ thêm rằng, ở vùng Đông Bắc Thái Lan, hàng ngàn người khi tham gia biểu tình đã giơ khẩu hiệu “Mekong blasting project” (tạm dịch là Dự án làm “nổ banh xác” Mekong) khi đề cập đến dự án 7 đập thủy điện kết hợp giao thông lớn trên dòng Mekong của Trung Quốc.
Trong khi đó, cộng đồng Campuchia sống dọc theo sông Mekong cũng tỏ ra lo lắng khi Lào dự kiến xây 9 đập thủy điện, còn Campuchia cũng có kế hoạch xây dựng 2 đập thủy điện trên dòng chính Mekong. “Bao thế hệ gia đình chúng tôi làm nghề đánh bắt thủy sản trên hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), nơi có chế độ thủy văn liên kết chặt chẽ với dòng Mekong. Từ khi các đập thủy điện được xây dựng, mực nước trên các hồ luôn xuống thấp, những loài cá lâu nay chúng tôi dùng làm mắm bị sụt giảm mạnh, có loài biến mất. Trước đây, lượng phù sa còn nhiều, người dân sản xuất lúa tự nhiên nhưng giờ mực nước xuống thấp, phù sa sụt giảm, người dân phải dùng phân hóa học để bổ sung vào đất. Năm 2019 này, mực nước mùa lũ đặc biệt xuống thấp, lượng thủy sản sụt giảm rất nhiều so mấy năm trước” – ông Long Sochet, người dân sống bên hồ Tonlé Sap (Campuchia), chia sẻ.
Làm sao phát triển bền vững?
“Bảo vệ lợi ích lâu dài trên dòng Mekong” là lời khẩn cầu tha thiết của bà Vorn Sem, trưởng một ngôi làng ở vùng Kratie, nơi Campuchia dự kiến xây dựng đập thủy điện. “Từ khi Trung Quốc vận hành các đập thủy điện đầu nguồn Mekong, lượng cá đánh bắt trong vùng giảm còn một nửa, nhiều người đã bỏ làng đi làm việc khác. Sau khi Lào vận hành đập Don Sahong, người dân sống ven sông không có rau để hái. Hiện nay, mỗi tháng có đến 15 ngày nước sông bị dơ, đục, chất lượng nước rất thấp, không còn sự trong lành của dòng sông tự nhiên. Chúng tôi đề nghị trước khi xây dựng thêm các đập thủy điện, chính phủ các nước cần nghiên cứu, khảo sát kỹ, nếu ảnh hưởng đến hệ sinh thái, sinh kế lâu dài của người dân thì phải tôn trọng ý kiến cộng đồng” – bà Vorn Sem nêu ý kiến.
Là một người sống vùng vú sữa Vĩnh Kim nổi tiếng khắp ĐBSCL, ông Nguyễn Thanh Hải (xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, Tiền Giang) cảm nhận rất rõ những tác động do biến đổi khí hậu và sụt giảm dòng chảy trên sông Cửu Long (thuộc hạ lưu sông Mekong). “Khoảng 10 năm trước, Tiền Giang có nước ngọt quanh năm, cây trái 4 mùa xanh tươi nhưng mấy năm gần đây, xâm nhập mặn ăn sâu vào đất liền, sạt lở bờ sông nghiêm trọng, cây trái rất khó trồng. Mùa khô 2019 – 2020, nước mặn càng xâm nhập sớm hơn những năm trước. Ở Vĩnh Kim, khoảng 80% cây vú sữa bị chết, số còn lại thì giảm năng suất. Ở khu vực Gò Công bị sạt lở bờ biển, không còn cây chắn gió nên tác động đến đất liền” – ông Hải lo lắng.
Bản thân ông Hải và nhiều nông dân vùng ĐBSCL đề nghị Chính phủ Việt Nam và các tổ chức quốc tế cần hỗ trợ vốn, kỹ thuật, kiến thức nuôi trồng thích ứng với biển đổi khí hậu, lựa chọn giống cây phù hợp với vùng thiếu nước ngọt. “Bên cạnh đó, cần hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời để thay thế và giảm phụ thuộc vào thủy điện, vốn là nguyên nhân chính gây thiếu hụt lượng nước, thay đổi dòng chảy, ảnh hưởng đến sinh kế người dân” – ông Hải kiến nghị.
Thông qua nhiều kết quả nghiên cứu độc lập, ông Naruepon Sukumasavin (Ban thư ký Ủy ban Sông Mekong Quốc tế) cho biết, các đập thủy điện trên dòng Mekong sẽ tiếp tục làm giảm độ màu mỡ của đất, giảm sản lượng lúa gạo cũng như sản lượng cá. Theo kịch bản đến năm 2040, lượng phù sa về ĐBSCL giảm đến 96%. “Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các dự án thủy điện sẽ làm gia tăng xói lở bờ sông và lòng sông, đặc biệt ở ĐBSCL của Việt Nam và dọc theo sông Mekong, từ Vientiane (Lào) đến Stung Treng (Campuchia). Các dự án thủy điện mới sẽ gây ảnh hưởng đến an ninh lương thực và đói nghèo. Do vậy, cần nghiêm túc đánh giá tác động lâu dài thay vì chỉ phục vụ lợi ích cục bộ cho các nhà đầu tư” – ông Naruepon Sukumasavin lưu ý.
Tăng cường hợp tác
Ngày 17-12-2019, tại Bắc Kinh (Trung Quốc) đã diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương với sự tham dự của Bộ trưởng Tài nguyên nước của các nước Campuchia, Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành làm Trưởng đoàn, cùng đại diện của các Bộ Ngoại giao, Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang.
Tại Hội nghị, các Bộ trưởng đã thảo luận, đánh giá các kết quả đạt được trong hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương; thông qua Tuyên bố chung và danh sách các đề xuất dự án Hợp tác Mekong-Lan Thương và chứng kiến Lễ ký bản Ghi nhớ Hợp tác giữa Trung tâm Hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương và Ban Thư ký Uỷ hội sông Mekong quốc tế.
Hợp tác Mekong – Lan Thương đã được bắt đầu từ năm 2016, trong đó hợp tác về tài nguyên nước đã đạt được một số kết quả quan trọng bước đầu như thiết lập cơ chế hợp tác về tài nguyên nước trong lưu vực, thành lập và đưa vào vận hành Trung tâm hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương, tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác tài nguyên nước Mekong-Lan Thương lần thứ nhất, tăng cường hoạt động chia sẻ thông tin số liệu trên phạm vi toàn lưu vực, đặc biệt là các số liệu thủy văn trong mùa lũ, nhiều dự án hợp tác chung giữa các nước đã được xây dựng và triển khai có hiệu quả...
Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các quốc gia thành viên chủ động và tích cực tham gia ngay từ quá trình thành lập Hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương và có nhiều đóng góp về nội dung và lĩnh vực hợp tác. Các đoàn đại biểu Việt Nam tham gia đầy đủ các cuộc họp Nhóm công tác, theo dõi quá trình triển khai các chương trình, dự án hợp tác trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng này. Việt Nam cũng tích cực, chủ động đề xuất các lĩnh vực hợp tác về tài nguyên nước và hiện đang đẩy mạnh thực hiện các đề xuất này.
Tại Hội nghị, các Bộ trưởng tiếp tục khẳng định Hợp tác Tài nguyên Nước Mekong-Lan Thương thời gian tới sẽ tiếp tục gắn chặt với chủ đề “Cùng chia sẻ dòng sông, cùng chia sẻ tương lai”; phối hợp chặt chẽ trong các hành động chung nhằm thực hiện các quyết định của lãnh đạo cấp cao; nỗ lực hỗ trợ thực hiện Kế hoạch hành động 5 năm của hợp tác tài nguyên nước Mekong-Lan Thương (2018-2022); tăng cường và mở rộng hợp tác về chia sẻ thông tin và dữ liệu giữa các quốc gia thành viên nhằm hướng tới đạt được một cơ chế chia sẻ thông tin và dữ liệu toàn diện cho Hợp tác Mekong-Lan Thương; tăng cường năng lực trong phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của các thiên tai liên quan đến nước và thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường đối thoại và phối hợp giữa các quốc gia thành viên về các vấn đề liên quan đến nước; thúc đẩy tiến trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững liên quan đến nước, duy trì cân bằng giữa phát triển và bảo vệ tài nguyên nước; khuyến khích phát triển đồng hành cơ chế Hợp tác Tài nguyên Nước Mekong-Lan Thương với các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Lê Công Thành đánh giá cao các thành tựu của Hợp tác Tài nguyên nước Mekong-Lan Thương và khẳng định sự tham gia tích cực và đóng góp có hiệu quả của Việt Nam trong cơ chế hợp tác này. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Hợp tác Mekong-Lan Thương vì lợi ích chung của tất cả các quốc gia ven sông trong lưu vực, Việt Nam đề nghị trong thời gian tới hợp tác tài nguyên nước cần ưu tiên thúc đẩy các hoạt động sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh triển khai thực hiện Kế hoạch hành động hợp tác nguồn nước 5 năm 2018-2022 thông qua thực hiện các chương trình, dự án chung đã được phê duyệt và tiếp tục xác định các dự án và hoạt động chung.
Thứ hai, tăng cường và mở rộng các lĩnh vực hợp tác, bao gồm cả chia sẻ thông tin số liệu, kinh nghiệm quản lý và trao đổi khoa học-kỹ thuật, đặc biệt hướng tới đạt được một cơ chế chia sẻ thông tin dữ liệu toàn diện cho toàn lưu vực sông Mekong.
Thứ ba, tăng cường tham vấn, đối thoại trong xây dựng chính sách, kế hoạch, quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý vì lợi ích chung của tất cả các nước trong lưu vực, tiến tới xây dựng một Chiến lược chung về quản lý tài nguyên nước cho lưu vực sông Mekong-Lan Thương, trên cơ sở thiết lập mạng lưới giám sát diễn biến trong lưu vực; các nghiên cứu tác động của các hoạt động phát triển và biến đổi khí hậu và các giải pháp phòng chống giảm nhẹ và thích ứng của từng quốc gia ven sông.
Thứ tư, nghiên cứu, trao đổi thông tin và kinh nghiệm, xây dựng các quy định chung nhằm tăng cường ứng dụng và phát triển công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; an toàn công trình.
Thứ năm, thúc đẩy sự phối hợp giữa cơ chế hợp tác Mekong-Lan Thương với các cơ chế hợp tác Mekong khác, đặc biệt là Ủy hội sông Mekong quốc tế, nhằm phát huy tối đa các cơ sở kiến thức sẵn có của các cơ chế này đã được xây dựng trong nhiều năm qua.
Kết thúc Hội nghị, các Bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố chung Hội nghị Bộ trưởng Hợp tác Tài nguyên Nước Mekong-Lan Thương và thống nhất tổ chức thường xuyên và luân phiên Hội nghị Bộ trưởng Hợp tác Tài nguyên Nước Mekong-Lan Thương.
Bài, ảnh: NGÔ CHUẨN