Kinh tế 2022 - 2023: 'Cỗ xe tứ mã' thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2023

01/01/2023 - 10:26

Việt Nam đã lập kỳ tích trong tăng trưởng kinh tế, đạt 8,02%, vượt khá so với mục tiêu kế hoạch năm 2022.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao gấp 2,5 lần tỷ lệ lạm phát là nét "khác biệt" trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với lạm phát cao nhất trong 40 năm qua và tăng trưởng thấp. Vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và khẳng định.

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023, chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Bích Lâm cho rằng đây là điều không dễ đạt được trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung, các nền kinh tế lớn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam dự báo rơi vào suy thoái sẽ tác động rất mạnh tới kinh tế Việt Nam.

Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trò chuyện đầu năm mới 2023 với TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê về động lực tăng trưởng, những khó khăn, thách thức của nền kinh tế trong năm 2023.

Dây chuyền chế biến tôm xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần thủy sản Minh Phú Hậu Giang. Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN

Năm 2022, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã lập kỳ tích, đạt 8,02%, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch. Ông nhận định như thế nào về kết quả này?

Năm 2022, hoạt động kinh tế nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đối mặt với nhiều thách thức. Đặc biệt, kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc khá nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh hạn chế. Chỉ một biến động nhỏ của thế giới cũng gây tác động lớn tới kinh tế - xã hội trong nước.

Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 đã lập kỳ tích, đạt 8,02%, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao gấp 2,5 lần tỷ lệ lạm phát là nét "khác biệt", trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với lạm phát cao nhất trong 40 năm qua và tăng trưởng thấp.

Vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và khẳng định. Trong khi tổng cầu thế giới suy giảm, đứt gãy chuỗi cung ứng, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm sau cao hơn năm trước, phản ánh sự năng động, vượt khó đi lên trong tìm kiếm nguồn hàng, tìm kiếm thị trường.

Kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả năm vượt mốc 730 tỷ USD, với 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản cán mốc 10 tỷ USD, đưa Việt Nam là quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn thứ 3 thế giới. Cán cân thương mại xuất siêu ở mức cao, đạt 11,2 tỷ USD góp phần giảm bớt áp lực tỷ giá trên thị trường ngoại tệ.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là điểm sáng của nền kinh tế trong bối cảnh đầu tư và thương mại quốc tế suy giảm. Năm 2022, vốn FDI thực hiện đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm 2021.

Thu hút đầu tư nước ngoài đã chuyển hướng, tập trung vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, phù hợp với chủ trương nâng cao chất lượng, ưu tiên các dự án hiện đại, có sức lan tỏa về công nghệ, tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đồng thời đáp ứng mục tiêu phát triển xanh và bền vững, đưa kinh tế Việt Nam tham gia sâu hơn vào mạng lưới cung ứng toàn cầu.

Đặc biệt, sự năng động, vượt khó của cộng đồng doanh nhân; tư duy đột phá, hành động khẩn trương, linh hoạt, đặt hiệu quả chỉ đạo lên trên hết của Chính phủ; sự đồng hành hiệu quả của Quốc hội trong ban hành chủ trương, chính sách... đã thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển.

Những điểm sáng trong bức tranh kinh tế đã được Moody's nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 với triển vọng ổn định. Fitch xếp hạng BB với triển vọng "tích cực".

Trong bức tranh kinh tế - xã hội năm 2022 của Việt nam, những vấn đề nào cần được khắc phục trong năm 2023?

Bức tranh kinh tế - xã hội năm 2022 của nước ta sẽ sắc nét hơn, ấn tượng hơn nếu như một số bất cập về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh được tháo gỡ kịp thời. Trong năm có 208,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động nhưng có tới 143,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, bình quân cứ 10 doanh nghiệp ra nhập thì có gần 7 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm, ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là giải pháp quan trọng và hiệu quả nhằm phục hồi, nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, bù đắp cho suy giảm xuất khẩu. Bởi, đầu tư công là động lực tăng trưởng của nền kinh tế được giải ngân thêm 1% so với năm trước sẽ làm GDP tăng thêm 0,058%.

Xuất khẩu hàng hóa cũng là động lực tăng trưởng của nền kinh tế trong các năm qua và những năm tới. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc lớn vào một số ít nhóm hàng và khu vực FDI. Kim ngạch của chỉ 8 nhóm hàng đã chiếm tới 70,1% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn nền kinh tế; kim ngạch của 2 nhóm hàng thuộc khu vực FDI là điện thoại và linh kiện và điện tử máy tính và linh kiện chiếm tới 30,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này phản ánh thương mại quốc tế của nước ta dễ bị tổn thương.

Đặc biệt, tỷ giá thương mại hàng hóa năm 2022 giảm 1,36%, phản ánh nền kinh tế cần nhiều hơn giá trị hàng xuất khẩu để đổi được một lượng hàng nhập khẩu so với năm 2021. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chưa phát huy và tận dụng lợi ích của các FTA mang lại để thúc đẩy xuất khẩu.

Vậy, yếu tố sẽ tác động đến kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam trong thời gian tới; những động lực nào cần thúc đẩy để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023?

Các chuyên gia kinh tế nhận định, có 5 yếu tố định hình kinh tế thế giới trong năm 2023 và các năm tiếp theo. Đó là: lãi suất; biến động của kinh tế Trung Quốc; phi toàn cầu hóa kinh tế thế giới; chuyển đổi năng lượng; can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.

Năm 2023, Trung Quốc đang dần loại bỏ chính sách Zero COVID, mở cửa trở lại nền kinh tế. Khi nền kinh tế khởi sắc, Trung Quốc sẽ tăng nhập khẩu dầu thô, nguyên vật liệu sản xuất, hàng hóa công nghiệp, đẩy giá nguyên liệu thô thế giới tăng lên, gây áp lực tăng giá nhiều loại hàng hóa tiêu dùng và các loại dịch vụ khác, khi đó lạm phát toàn cầu sẽ bật tăng.

Nếu Trung Quốc mở cửa hoàn toàn vào giữa năm 2023, Bloomberg ước tính giá năng lượng sẽ tăng 20% và chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ dự báo sẽ giảm xuống 3,9% vào giữa năm, có nguy cơ tăng vọt lên 5,7% vào cuối năm 2023.

Hoạt động kinh tế xã hội nước ta trong năm 2023 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố rủi ro bất định. Cuộc chiến Nga - Ukraine chưa có hồi kết, gây hệ lụy đến an ninh năng lượng, lương thực, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng.

Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 suy giảm so với năm 2022, có thể rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế hàng đầu thế giới tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt, tăng lãi suất để xử lý lạm phát; kinh tế nước ta có độ mở lớn.

Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế năm 2023 của nước ta chủ yếu dựa vào "cỗ xe tứ mã" với tầm quan trọng khác nhau của 4 "con ngựa kéo" là 4 trụ cột. Đó là, đổi mới, đảm bảo tính đồng bộ về thể chế và môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế; thúc đẩy tiêu dùng trong nước của thị trường gần 100 triệu dân; thực hiện nhanh, hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội, đặc biệt là đầu tư công để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh và tính lan tỏa của nền kinh tế; xuất khẩu; chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh thực hiện kinh tế số, kinh tế tuần hoàn là động lực mới và sẽ trở thành trụ cột trong những năm tới.

Để giữ ổn định vĩ mô, đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5%, theo ông, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cần tập trung vào những giải pháp nào?

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra cho năm 2023 là 6,5%, với quy mô GDP tăng từ 916,2-969,7 nghìn tỷ đồng so với năm 2022, tương đương với mức tăng quy mô GDP của năm 2022 so với năm 2021 với tốc độ tăng trưởng 8,02%.

Tuy mục tiêu tăng 6,5% GDP năm 2023 thấp hơn mức tăng 8,02% của năm 2022 nhưng 1% GDP năm 2023 đạt 104,1 nghìn tỷ đồng, cao hơn 9,7 nghìn tỷ đồng so với 1% GDP của năm 2022.

Để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023, dự kiến khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản phải tăng 3%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,6-8,3%; khu vực Dịch vụ tăng 6,5-7%. Đây là các mức tăng không dễ đạt được trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung, các nền kinh tế lớn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam dự báo rơi vào suy thoái sẽ tác động rất mạnh tới kinh tế Việt Nam.

Vì vậy theo tôi, Chính phủ, cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, đảm bảo đủ nguồn cung đáp ứng tổng cầu tăng, giảm áp lực lạm phát.

Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, phù hợp giữ ổn định vĩ mô; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hạn chế tối đa lạm phát do tỷ giá, đồng thời giữ ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó, có giải pháp cung ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu, tránh rủi ro biến động của tỷ giá; đồng thời, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ như: giãn, hoãn, miễn thuế, hỗ trợ lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp.

Bộ Công Thương minh bạch, đơn giản hóa quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; giữ vững năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt trên thị trường thế giới. Dự báo sớm các mặt hàng có thể thiếu hụt trong dài hạn để có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Cùng với đó, Bộ Công Thương chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn.

Điện là mặt hàng năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Bộ Công Thương cần dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho từng quý trong năm 2023.

Ngoài ra, đánh giá tác động của việc tăng giá điện, dịch vụ y tế, giáo dục, tăng lương cơ sở đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ và thời điểm điều chỉnh giá điện, giá các loại dịch vụ do nhà nước quản lý, tránh gây cộng hưởng lạm phát chi phí đẩy, tạo ra lạm phát kỳ vọng của nền kinh tế…

Đối với cộng đồng doanh nghiệp, tôi cho rằng, doanh nghiệp cần phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt chuẩn bị đầy đủ các điều kiện duy trì và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Đồng thời, đa dạng và đảm bảo nguồn cung cho sản xuất của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành để không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực.

Chủ động nắm bắt, cập nhật thông tin và dự báo chính xác động thái thị trường, nhất là xu hướng, mức độ và lộ trình tăng giá, tăng lãi suất để chủ động trong xây dựng, điều chỉnh và thực hiện kế hoạch tài chính, kinh doanh. Nắm bắt và đánh giá cách các "đối thủ cạnh tranh" phản ứng với tình huống; đồng thời, giám sát tình hình sức khỏe và chất lượng hoạt động của các nhà cung cấp nguyên vật liệu sản xuất.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp vừa là giải pháp ứng phó bất ổn, vừa là công cụ để cạnh tranh chiến lược, nâng cao năng lực và khả năng thích ứng trước các biến động, bất ổn khó lường của kinh tế thế giới.

Cùng với đó, để phát huy động lực xuất khẩu cho tăng trưởng, các doanh nghiệp phải cập nhật thông tin mới, đổi mới cách tiếp cận nhằm tận dụng tối đa những lợi ích do các Hiệp định thương mại tự do mang lại; cải tiến quy trình sản xuất sản phẩm đáp ứng quy định của các thị trường quốc tế và đủ tiêu chuẩn để hưởng lợi từ các FTA.

Với các chính sách, giải pháp phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, với chỉ đạo khẩn trương, sát sao và cụ thể của Chính phủ, trong bối cảnh kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái, mục tiêu tăng trưởng 6,5% của năm 2023 có tính khả thi nhưng không dễ đạt được.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Theo THÚY HIỀN (Báo Tin tức)

 

Liên kết hữu ích