Ở giao điểm của phong cách thời trang thoải mái và trang phục thể thao, phong cách ‘athleisure’ là sự lựa chọn hoàn hảo cho những người sống có lối sống tích cực, năng động, hoặc ít nhất muốn xuất hiện như vậy. Trong thập kỷ qua, danh mục quần áo lai được xây dựng dựa trên sự dễ mặc và vật liệu kỹ thuật đã thay đổi cách tiếp cận của mọi người đối với việc mặc quần áo. Bản thân cái tên ‘athleisure’ này là sự kết hợp giữa thể thao và giải trí, hai từ với ý nghĩa trái ngược nhau. Tuy nhiên, trong quần áo, sự thoải mái là cốt lõi của cả quần áo thể thao và quần áo ở nhà. Mặc dù athleisure ban đầu được phân biệt với quần áo năng động thể thao, nhưng phạm trù phát triển với công nghệ dệt may và bây giờ ranh giới giữa trang phục thể thao và athleisure đã trở nên mờ nhạt.
Mặc dù sự phát triển của athleisure tương đối mới, nhưng mong muốn kết hợp hai khái niệm thể thao và giải trí đã có từ cuối thế kỷ 19. Vào những năm 1870, trang phục thể thao đã xuất hiện khi mọi người tìm ra những cách ăn mặc thực tế hơn cho những sở thích như chơi tennis, chơi gôn và đạp xe. Tại thời điểm này, trang phục thể thao được xác định bằng các khoảng cách cho phép người mặc tự do di chuyển hơn. Cho đến những năm 1920, những bộ đồ thể thao thoải mái hơn đã trở thành một món đồ thời trang, khi các nhà thiết kế như Coco Chanel và Jean Patou làm cho phong cách này trở thành xu hướng chủ đạo. Chanel bị ảnh hưởng đặc biệt bởi thể thao, truyền các yếu tố săn bắn và cưỡi ngựa vào phong cách đặc trưng của bà.
Tuy nhiên, trong thời trang Mỹ, chính thiết kế của Claire McCardell, đã đi tiên phong trong sự tiện lợi và thoải mái của trang phục thể thao. Vào những năm 1930, bà đã tìm cách tránh xa những ảnh hưởng của châu Âu, thay vào đó chế tạo thời trang của mình từ hàng dệt tiện dụng như cotton, len, denim và calico, và kết hợp chúng với những chi tiết thiết thực. Khi bà ấy giới thiệu các trang phục riêng biệt cho quần hoặc áo, chúng đều trở thành những mặt hàng nóng. Các thiết kế của McCardell, tập trung vào tính thực tế và chức năng, cung cấp cho khách hàng một tủ quần áo có thể mặc và linh hoạt trong những năm 40, bà đã tạo ra năm loại quần áo có thể trộn và kết hợp thành chín trang phục. Sự đơn giản trong trang phục thể thao của bà phục vụ lối sống ngày càng năng động của phụ nữ thời bấy giờ.
Trong khi đó, những người đàn ông đang chiến đấu để mang phong cách thể thao vào tủ quần áo của họ. Vào năm 1930, các sinh viên của Đại học Dartmouth toàn nam giới đã tổ chức một cuộc biểu tình đòi quyền được mặc quần short để họ có thể thư giãn với niềm vui tối cao của sự tự do hoàn toàn. Thông thường các chàng trai vị thành niên mặc kiểu quần ngắn hơn, nhưng nam giới thường chỉ mặc chúng cho các hoạt động thể thao hoặc ngoài trời. Với sự thúc đẩy này cho sự thoải mái, quần short và áo polo đã sớm là trang phục giải trí phổ biến cho các sự kiện xã hội.
Khi phong cách thể thao trở thành xu hướng chủ đạo hơn, nơi và thời điểm thích hợp để mặc những bộ quần áo như vậy bắt đầu nới lỏng. Một khi mọi người cảm nhận được sự thoải mái của đồ thể thao không hạn chế, mọi người muốn kết hợp nó vào tủ quần áo hàng ngày của họ. Từ những người đàn ông có thể mặc quần short vào những năm 40, đến việc bình thường hóa phụ nữ mặc quần vào những năm 50, đã có một xu hướng đại chúng theo phong cách năng động, giản dị. Quy tắc ăn mặc bắt đầu nới lỏng vào giữa thế kỷ 20. Đối với người Mỹ, điều này cũng trùng hợp với sự gia tăng của tầng lớp trung lưu. Quần áo giản dị có thể dễ dàng tiếp cận được và nó không công khai thể hiện sự giàu có hay vị thế xã hội, cho phép mọi người ăn mặc thoải mái hơn thay vì cố gắng tỏ ra như họ thuộc về tầng lớp cao hơn.
Sự bùng nổ lớn của các thể dục thể thao đến vào những năm 70 và 80. Tập luyện tại nhà đã nhanh chóng trở nên phổ biến nhờ các băng tập luyện nổi tiếng của Jane Fonda và những người nổi tiếng khác. Các phòng tập thể dục và trung tâm thể dục thương mại cũng đang phát triển, cùng với các spa và các chương trình chăm sóc sức khỏe tại nơi làm việc, tạo ra một lối sống lành mạnh toàn diện. Điều này gây ra nhu cầu về quần áo activewear tiên tiến hơn được thiết kế dành riêng cho thể dục và di động. Các loại vải dệt hiệu suất như Lycra, Spandex và các chất tổng hợp khác đã sớm áp dụng với cơn sốt tập luyện.
Tầm nhìn rộng hơn về thể dục trong giai đoạn này cũng mang đến nhu cầu về những bộ đồ năng động hấp dẫn hơn, và khi các thương hiệu như Nike và Adidas nổi lên, quần áo tập thể dục không chỉ mặc cho tập luyện. Tuy nhiên, vẫn có một sự khác biệt giữa quần áo thể thao thực sự và quần áo được thiết kế để trông như thể thao. athleisure ban đầu được sử dụng để mô tả cái sau, với thuật ngữ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1979. Nó tiếp tục được cắt xén trong các ấn phẩm thời trang khác nhau trong suốt thập niên 80 và 90 khi những người nổi tiếng như Công nương Diana bước ra trong các thiết kế thể thao sang trọng như Calvin Klein và Tommy Hilfiger truyền tải kiểu dáng với gu thẩm mỹ streetwear.
Sự tập trung vào quần áo giản dị nhưng thú vị tiếp tục vào thiên niên kỷ tiếp theo. Trong những ngày đầu tiên, bộ đồ thể thao Juicy Couture trở thành cơn thịnh nộ, hợp nhất vẻ đẹp mê hồn, màu kẹo với kiểu dáng của bộ đồ năng động. Khi thời trang phát triển, mong muốn về sự sang trọng thoải mái vẫn còn, và các thương hiệu thời trang đường phố đương đại đã bão hòa thị trường. Trong những năm 2010, văn hóa hypebeast đã được tôn vinh, với Supreme đứng đầu, biến quần nỉ, áo hoodie và những thứ cơ bản khác trên đường phố thành một biểu tượng xã hội. Các nhãn hiệu thời trang cao cấp như Chanel, Fendi và Prada đều đã áp dụng xu hướng này, từ quần legging đến áo lót thể thao. Trong khi đó, Kanye West Yeezy tung ra thị trường vào giữa những năm 2010 với trọng tâm là athleisure, từ giày thể thao sneaker cho đến những bộ đồ thun có tông màu trung tính.
Sự phát triển của athleisure cũng thay đổi kết cấu theo nghĩa đen của nó. Khi thời trang phát triển, athleisure đã ngừng bắt chước quần áo thân thiện với thể thao và bắt đầu được sản xuất từ các vật liệu cấp hiệu suất. Bây giờ, bạn có thể hẹn hò trong cùng một chiếc quần yoga bạn mặc đến lớp tập. Sự tập trung vào khả năng mặc đã ảnh hưởng đến cả hai mặt của athleisure. Các thương hiệu thể hình muốn xuất hiện nhiều thời trang hơn, trong khi nhãn hiệu thời trang nhanh và quần áo may sẵn cung cấp nhiều quần áo ảnh hưởng thể thao hơn.
Yếu tố của người nổi tiếng đã là mấu chốt cho sự phát triển của quần áo thể thao hàng ngày. Những người nổi tiếng không chỉ là những người sành điệu, thể hiện cách tạo phong cách thể thao, mà nhiều người trong số họ cũng đã đặt tên của họ đằng sau thời trang. Từ Kate Hudson, Fabletics đến Beyoncé’s Ivy Park, trang phục năng động và athleisure trở thành cơ hội kinh doanh cho nhiều ngôi sao. Sự hợp tác của những người nổi tiếng cũng thúc đẩy doanh số bán đồ thể thao, chẳng hạn như Rihanna, Fenty X Puma và Tommy Hilfiger, bộ sưu tập TommyNow hợp tác, bắt đầu với Gigi Hadid và cũng đã hợp tác với Zendaya và gần đây nhất là Lewis Hamilton. Ngoài sự hợp tác của những người nổi tiếng, sự hấp dẫn phổ biến của athleisure mang đến cơ hội cho các nhãn hiệu thiết kế hợp tác với các thương hiệu thể thao để có những sản phẩm có giá dễ tiếp cận hơn. Stella McCartney và Adidas, Karl Lagerfeld và Puma, và Reebok và Victoria Beckham đều đã có những bộ sưu tập thể thao thành công.
Dù đi lang thang ở nhà hay tập gym, athleisure vẫn là kiểu dáng được yêu thích. Khác xa với những bộ đồ thể thao của những năm 1940, giờ đây nó có hiệu suất cao như thời trang. Kết hợp công nghệ dệt với phong cách, và đôi khi là một sự tiếp thị của người nổi tiếng, quần áo lấy cảm hứng từ thể thao tiếp tục phát triển theo thời đại.
Theo DIỄM QUỲNH (Dân Việt)