Sputnik đề cao 35 năm Đổi mới và chuyển mình lịch sử của Việt Nam

25/01/2021 - 19:11

Sputnik lý giải "bí quyết" để Việt Nam từ một nước nghèo đã bứt phá ngoạn mục trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, y tế, giáo dục, quân sự, ngoại giao và khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế.


Chuẩn bị xuất khẩu khoảng 100.000 tấn gạo vào EU theo EVFTA. (Ảnh: TTXVN)

Hãng tin Sputnik của Nga vừa phát bài của tác giả Taras Ivanov đánh giá 35 năm Đổi mới của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Bài viết mô tả một Việt Nam “bứt phá” với những thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, y tế, giáo dục, quân sự và ngoại giao, đồng thời lý giải "bí quyết" để Việt Nam phát triển như ngày nay từ một nước nghèo cách đây 35 năm

Đổi mới - Chìa khóa mở ra vận hội mới

Mở đầu bài viết, tác giả khẳng định, đường lối “Đổi mới” do Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đề ra và các đại hội sau tiếp tục hoàn thiện và phát triển đã mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mục đích của Đổi mới là tìm kiếm con đường đi lên xã hội chủ nghĩa phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát triển của Việt Nam trong 35 năm qua rất đáng ngưỡng mộ.

Những cải cách kinh tế và chính trị dưới thời Đổi mới đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, biến Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành một quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Từ năm 2002-2018, GDP bình quân đầu người đã tăng 2,7 lần, đạt hơn 2.700 USD năm 2019 và hơn 45 triệu người đã thoát nghèo. Tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống dưới 6%.

Bài viết nêu rõ năm 2019, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục thể hiện sức mạnh và khả năng phục hồi nhanh chóng bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước mạnh mẽ và sản xuất hướng tới xuất khẩu. GDP thực tế ước tăng 7%, là một trong những tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, dù chịu tác động nặng nề từ đại dịch COVID-19, nhưng kinh tế Việt Nam đã thể hiện được khả năng phục hồi đáng nể.

WB đánh giá tác động của COVID-19 ở Việt Nam không nghiêm trọng như các nước khác do quốc gia này nhanh chóng áp dụng các biện pháp chủ động ở cấp quốc gia và địa phương.

Khuôn khổ kinh tế vĩ mô và tài khóa vẫn được duy trì ổn định với tốc độ tăng trưởng GDP ước tính đạt gần 3% năm 2020. Dịch bệnh COVID-19 cũng không thể ngăn cản kinh tế Việt Nam đạt những kết quả “ngoạn mục.”

Bài viết dẫn lời Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hữu Nghĩa, cho thấy các chỉ số kinh tế lạc quan của Việt Nam: tăng trưởng kinh tế cao (bình quân 6%/năm), quy mô nền kinh tế tăng 1,4 lần, năng suất lao động tăng cao (bình quân 5,8%/năm), kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn; môi trường kinh doanh cải thiện, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện một bước quan trọng, huy động được nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển.

Theo Sputnik, đầu tư công vẫn chiếm tỷ trọng lớn và là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam suốt 35 năm Đổi mới.

Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được đề ra tại Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ cấu đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng giảm dần theo hướng phù hợp với kinh tế thị trường và bối cảnh khu vực tư nhân ngày càng lớn mạnh cũng như khu vực đầu tư nước ngoài ngày càng quan trọng.

Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu và Quản lý trung ương, tỷ trọng vốn đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội trong 10 năm qua giảm từ 39,04% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 31-34% giai đoạn 2016-2020.

Trong khi đó, hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng lại liên tục được cải thiện, hệ số sử dụng vốn ICOR giai đoạn 2016-2020 ước khoảng 6,11, cao hơn so với mức gần 6,29 của giai đoạn 2011-2015”.

Chuyển đổi số - chất xúc tác cho nền kinh tế Việt Nam

Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam ý thức được rõ “chuyển đổi số” đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với nền kinh tế sau 35 năm Đổi mới.

Tác giả cho biết cuối năm 2019, Chính phủ Việt Nam và Bộ Thông tin và Truyền thông đã xác định năm 2020 là năm chuyển đổi số quốc gia. Nhưng với sự tác động mạnh mẽ và bất ngờ từ COVID-19, tiến trình chuyển đổi số có cơ hội được đẩy mạnh hơn.

Trong chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam, con người luôn là nhân tố được đặt ở vị trí trung tâm. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần khẳng định mạnh mẽ rằng, 2020 là năm khởi động tiến trình hướng tới một “Việt Nam số.”

Trong vòng 7 năm (2014-2020), Việt Nam đã tiến 29 bậc, từ vị trí 71 lên vị trí 42/131 quốc gia/nền kinh tế trong Bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) do WIPO công bố.

Dịch COVID-19 xuất hiện đã cho thấy sự chuyển đổi linh hoạt của người Việt nói chung và doanh nghiệp Việt nói riêng.

Đẩy mạnh áp dụng khoa học-công nghệ vào y tế

Tác giả đánh giá giai đoạn 35 năm đã đánh dấu những tiến bộ vượt bậc của ngành y tế Việt Nam, không chỉ trong công tác nghiên cứu mà còn trong phát triển và ứng dụng công nghệ.

Những thành tựu của ngành y tế Việt Nam thời gian qua đã gây tiếng vang lớn trên thế giới như sản xuất vắcxin phòng bệnh, ghép tạng,…

Việt Nam hoàn toàn tự hào khi là một trong số ít các quốc gia kiểm soát, ngăn ngừa nhiều dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Hội chứng suy hô hấp cấp nghiêm trọng (SARS), cúm A/H7N9... và gần đây nhất là dịch COVID-19.

Nghiên cứu vắcxin COVID-19 tại Viện Vaccine và Sinh phẩm Y tế tại tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh: Thanh Vân/TTXVN)

Chiến thắng của Việt Nam trước COVID-19 được đánh giá là một “hiện tượng” của thế giới. Có được chiến thắng này phải kể đến sự đồng tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam.

COVID-19 là “cú hích” mang lại nhiều thay đổi cho nền y tế Việt Nam. Ngay trong công tác phòng chống COVID-19, các ứng dụng công nghệ được áp dụng triệt để như ứng dụng truy vết Covid Bluezone hay sử dụng các mạng xã hội Facebook, Zalo… để tuyên truyền về cách thức phòng chống dịch bệnh.

Tất cả các hoạt động trên được triển khai trong khuôn khổ Chương trình Chuyển đổi số quốc gia mà Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 6/2020. Trong đó, y tế được xếp ở vị trí đầu tiên.

Đây là lĩnh vực liên quan đến nhiều người dân nhất, độ bao phủ rộng khắp nhất, là nền tảng của một quốc gia phát triển. Cũng vì thế mà chuyển đổi số sẽ phát huy hiệu quả nhất.

Từ 1993-2017, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ). Từ 1990-2016, tuổi thọ trung bình đã tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi và là mức cao nhất trong khu vực đối với các quốc gia có mức thu nhập tương tự.

Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân của Việt Nam ở mức 73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và toàn cầu - với 87% dân số được bao phủ. Trong suốt 35 năm qua, sức khỏe của người dân Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, song song với mức sống ngày càng tăng.

Giáo dục - cốt lõi của phát triển

Tác giả bài viết cho rằng nhìn lại hành trình 35 năm công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục Việt Nam có nhiều thay đổi, phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng.

Theo số liệu Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010.

Chất lượng giáo dục của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng đầu tại Đông Nam Á.

Trong 6 nước tham gia Chương trình đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019, gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Malaysia, Myanmar, Philippines, học sinh tiểu học Việt Nam đứng đầu ở cả 3 năng lực được khảo sát là Đọc hiểu, Viết, Toán học.

Trưởng Chương trình Giáo dục của UNICEF tại Việt Nam, bà Simone Vis cho biết: “Kết quả của Việt Nam vượt trội hơn hẳn các nước cùng tham gia kỳ đánh giá. Tôi rất ấn tượng và tự hào với thành tích đó... Nhìn chung chất lượng giáo dục Tiểu học của Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ, không chỉ trong khu vực mà cả trên quốc tế.”

Dù dịch COVID-9 bùng phát vào đầu tháng 2-2020, Việt Nam cũng hoàn thành mục tiêu kép: Học tập an toàn trong đại dịch.

Xác định chủ trương “tạm dừng đến trường, không ngừng việc học,” Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo tăng cường các hình thức dạy học qua Internet, trên truyền hình.

Đây là lần đầu tiên việc dạy học trực tuyến được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc. Kết quả dạy học trực tuyến của Việt Nam được các tổ chức trong nước và quốc tế đánh giá rất tích cực.

Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố ngày 29-9-2020 nhận xét: “Việc học trực tuyến để phòng, chống COVID-19 ở Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác.”

Cụ thể, Việt Nam có 79,7% học sinh được học trực tuyến. Tỷ lệ này cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%).

Ở bậc đại học, có trên 50% cơ sở giáo dục cũng dạy học từ xa, trong đó nhiều trường áp dụng trực tuyến hoàn toàn, một số cơ sở kết hợp giữa đào tạo trực tuyến và trực tiếp.

Dạy học trực tuyến đã giúp rút ngắn thời gian thực dạy khi học sinh trở lại trường học; tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh.

Hình thức dạy học này cũng giúp giáo viên, học sinh làm quen và tăng cường hơn các kỹ năng công nghệ thông tin, thích ứng với những hình thức học tập mới của giáo dục tiên tiến trong thời đại công nghệ 4.0.

Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia, chung tay gìn giữ hòa bình thế giới

Theo tác giả Taras Ivanov, nhìn lại 35 năm đường lối Đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng-an ninh, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật.

Thành tựu đầu tiên chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Có thể nói, đây là kết quả khẳng định đường lối Đổi mới của Đảng, trong đó có đổi mới về quân sự, quốc phòng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Bài viết nhận định nền quốc phòng toàn dân tại Việt Nam được xây dựng ngày càng vững mạnh toàn diện; có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó, phát huy được tiềm lực quốc phòng-an ninh của chính Việt Nam.

Tăng cường đa phương hóa, chủ động hội nhập quốc tế

Trong sự nghiệp Đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, ngoại giao Việt Nam được trao sứ mệnh hoàn toàn mới, góp phần quan trọng tạo dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đồng thời linh hoạt, sáng tạo tìm ra phương cách mới thúc đẩy hợp tác quốc tế, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, góp phần quan trọng nâng cao thế và lực cho đất nước.

Bài viết nhấn mạnh từ một quốc gia bị cô lập và cấm vận, công tác ngoại giao của Việt Nam đã phá vỡ mọi rào cản, mang Việt Nam lại gần với thế giới.

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng (như CPTPP, EVFTA…), qua đó tạo động lực mới cho phát triển.

Tác giả nhắc lại xuất phát từ việc chỉ “tham gia,” hiện nay, Việt Nam đã mạnh dạn và chủ động “định hình cấu trúc và luật chơi mới” trong và ngoài khu vực.

Với vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã chuẩn bị kỹ lưỡng Nghị quyết về hợp tác ASEAN-Liên hợp quốc.

Sự chuẩn bị chu đáo được tiến hành song song với công tác đàm phán và vận động đã nhận được sự ủng hộ kỷ lục về số nước đồng bảo trợ (110 quốc gia).

Nghị quyết do Việt Nam chuẩn bị đã đạt 3 kỷ lục: thời gian thương lượng ngắn nhất, thời gian vận động ngắn nhất và số nước đồng bảo trợ đông nhất so với các nghị quyết hợp tác giữa ASEAN và Liên hợp quốc từ trước đến nay.

Điều này khẳng định hơn nữa uy tín ngày càng cao của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.

Đối với vấn đề Biển Đông, tại các hội nghị quốc tế và ASEAN, Việt Nam đã nêu vấn đề Biển Đông và tạo được sự đồng thuận, ủng hộ trong khu vực cũng như bên ngoài.

Song song với đó, Việt Nam vẫn tiếp tục các hoạt động kinh tế bình thường trên những vùng biển hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Tác giả bài viết dẫn lời Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho biết: “Năm 2020 tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều yếu tố bất ổn định. Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục duy trì được môi trường ổn định ở Biển Đông thông qua nhiều biện pháp, trong đó các biện pháp về quan hệ song phương với các nước. Tại tất cả các cuộc trao đổi của lãnh đạo cấp cao với các nước cũng như tiếp xúc của các cấp, vấn đề Biển Đông luôn được Việt Nam nêu với mục tiêu, yêu cầu đảm bảo được môi trường hòa bình, ổn định tại Biển Đông, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), không có các hành động làm phức tạp tình hình tại Biển Đông.”

Trong giai đoạn sắp tới, hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam sẽ tập trung vào việc đảm nhận vai trò rộng lớn hơn trên mọi phương diện trong ASEAN và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tham gia định hình cấu trúc, cơ chế, luật chơi mới; liên kết kinh tế sâu rộng, gắn chuyển đổi số và phát triển bền vững; hoàn tất các cam kết quan trọng như Tầm nhìn ASEAN 2025 và sau 2025, Tầm nhìn APEC 2040, những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do, Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu...

Bài viết kết luận đối với một quốc gia, 35 năm có thể không phải là khoảng thời gian dài, nhưng với Việt Nam, đó là cả một quãng thời gian “Đổi mới” và chuyển mình lịch sử.

Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, Việt Nam đã khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế, trở thành thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế và hiện có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ.

Với những thành tựu trong 35 năm qua, một đất nước Việt Nam đổi mới, năng động và liên tục phát triển sẽ trở thành “điểm sáng” trên bản đồ thế giới.

Theo TTXVN/Vietnam+)