Từ đó đảo Trường Sa nói riêng và quần đảo Trường Sa nói chung bước vào thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đặc công Lữ đoàn 126 đổ bộ lên đảo Song Tử Tây
Hướng tiến công chiến lược trên biển
Tháng 3-1975, sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ. Ngoài thời cơ thống nhất đất nước, Bộ Tổng tham mưu đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhìn nhận cần gấp rút giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa – nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế và quân sự mà quân đội Việt Nam Cộng hòa đang nắm giữ.
Khi đó, Trường Sa có 11 đảo có người ở do quân đội của ba nước và vùng lãnh thổ đóng giữ, gồm: Đài Loan chiếm giữ Ba Bình; Philippines giữ Thị Tứ, Vĩnh Viễn, Bến Lạc, Nam Côn, Song Tử Đông; chính quyền Việt Nam Cộng hòa đóng giữ Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa Lớn và mới đặt bia chủ quyền ở đảo An Bang, chưa có người ở. Lực lượng quân đội Sài Gòn đóng giữ ở đây gồm khoảng 150 lính bảo an, thuộc Tiểu đoàn 371 Phước Tuy.
“Sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc ngày 19-1-1974 càng cho thấy tầm chiến lược của những mảnh đất xa xôi, chập chờn trên sóng gió biển Đông. Cần tổ chức giải phóng kịp thời phần đất này. Nếu chậm, để quân đội nước khác xâm chiếm, tình hình sẽ rất phức tạp… Theo thăm dò, triển vọng ở đây có dự trữ dầu lửa lớn. Có thể thấy biển và đại dương sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu của nhân loại kể từ thế kỷ 21”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ vấn đề và gọi đây là “một sự kiện đặc biệt diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu”.
Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo chính quyền Sài Gòn đang chiếm giữ. Kiến nghị ngay lập tức được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25-3-1975. Chính ủy Hải quân Hoàng Trà được điều về làm việc cạnh Bộ Tổng tham mưu, kiến nghị về nhiệm vụ của hải quân trong trận tổng giao chiến cuối cùng. Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về các đảo, quần đảo thuộc vùng biển Việt Nam, Cục Quân báo nắm tình hình biển Đông.
Giải phóng các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ trong quần đảo Trường Sa trở thành một hướng tiến công chiến lược trên biển, nhằm phối hợp với các hướng tiến công trên bộ vào Sài Gòn.
Về thời cơ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dặn dò: “Nếu đối phương đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay, nếu nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại. Trên mặt trận biển Đông, hành động của Hải quân cũng phải “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Khó khăn lớn nhất cho Hải quân là giải phóng các đảo trên một vùng biển rộng lớn với lực lượng nhỏ bé, xung quanh là sự lăm le của một số nước, trong đó có tàu của Hạm đội 7 Mỹ. Vị tổng tư lệnh lo lắng đặt câu hỏi: “Thời cơ giải phóng là như vậy, nhưng cách đánh thì sao? Trong tình hình vũ khí, phương tiện của ta còn kém hơn cả đối phương về số lượng và trình độ hiện đại?”.
Nhiệm vụ được giao cho Đoàn 126, Quân chủng Hải quân. Đoàn đặc công nổi danh với hàng trăm trận đánh chìm tàu chiến của Mỹ ở Đông Hà – Cửa Việt làm lực lượng chủ công, phối hợp với đội đặc công nước của Tiểu đoàn 471 và Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 28, Sư đoàn 2 (Quân khu 5). Tàu vận tải quân sự của Trung đoàn 125 được giao nhiệm vụ chở quân. Thượng tá Mai Năng, Trưởng Đoàn 126 là chỉ huy trận này.
Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo phát hiện chính quyền Sài Gòn bắt đầu rút quân khỏi các đảo. Quân ủy Trung ương lập tức gửi điện tối khẩn cho các ông Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Hoàng Hữu Thái. “Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước đang có ý đồ xâm chiếm”, nội dung bức điện nêu. Cùng thời điểm này trên đất liền, các cánh quân lớn đang hành quân thần tốc tiến vào thị xã Xuân Lộc, chọc thủng tuyến phòng ngự cuối cùng của cửa ngõ phía đông Sài Gòn.
Một ngày sau, các tàu vận tải 673, 674, 675 của Quân chủng Hải quân cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài, chở theo các chiến sĩ đặc công rời quân cảng Đà Nẵng tiến về Trường Sa. Sau 3 ngày lênh đênh, đoàn tàu đến nơi, cách Song Tử Tây vài km vờ đánh cá để trinh sát tình hình.
Trong các đảo ở Trường Sa mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ, Nam Yết là mạnh nhất, có sở chỉ huy chung và khoảng 60 binh sĩ; Song Tử Tây có khoảng 40 và mỗi đảo còn lại khoảng 20 người, được trang bị vũ khí bộ binh, cối… Hạn chế lớn nhất của đội quân đóng giữ ở đây là lực lượng mỏng, khả năng ứng cứu từ đất liền ra hoặc giữa các đảo với nhau không dễ dàng, tinh thần hoang mang do thất bại liên tiếp từ đất liền.
Quân chủng Hải quân chọn đánh Song Tử Tây trước vì đây là chỗ yếu nhất và để thăm dò phản ứng của đối phương, làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại.
Góp phần vào thắng lợi chung của đất nước
4h30 sáng 14-4, các tàu vận tải bí mật áp sát Song Tử Tây, 3 mũi đặc công cùng đổ bộ. Bị đánh bất ngờ, lính trên đảo chống trả yếu ớt. Sau 30 phút giao tranh, đặc công hải quân làm chủ Song Tử Tây, 6 lính Việt Nam Cộng hòa tử trận, 33 người bị bắt sống, 2 lính đặc công hy sinh.
Rạng sáng 14-4, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tung bay trên đỉnh cột trước bia chủ quyền trên đảo. Sau đó, một bộ phận chiến sĩ ở lại phòng thủ, số khác đưa tù binh, thương binh về Đà Nẵng bàn giao.
Sau khi ta giải phóng Song Tử Tây ngày 14-4, hệ thống phòng thủ của địch trên quần đảo Trường Sa bị đe dọa, địch hoang mang lo sợ. Chớp thời cơ đó, lúc 0 giờ 30 phút ngày 25-4, ta sử dụng 2 tàu 673 và 641 chở lực lượng từ đảo Song Tử Tây đến đảo Sơn Ca. Khi đến cách Sơn Ca 2 hải lý, lực lượng được chia làm 3 mũi, do thiếu úy Đỗ Viết Cường chỉ huy đổ bộ lên đảo. 1 giờ 30 phút ta đổ bộ xong, bắt đầu trinh sát đảo. 2 giờ 30 phút, ta nổ súng tấn công tiêu diệt địch. Bị đánh bất ngờ, địch chống cự yếu ớt rồi hốt hoảng bỏ chạy, đầu hàng. 3 giờ sáng ngày 25-4 ta giải phóng hoàn toàn đảo Sơn Ca, tiêu diệt và bắt sống 25 tên địch, tịch thu vũ khí cùng toàn bộ quân trang.
Chắc tay súng bảo vệ biển đảo của Tổ quốc
Sau chiến thắng của quân Giải phóng tại Song Tử Tây và Sơn Ca, hệ thống phòng thủ của địch trên các đảo bị đe dọa nghiêm trọng. Nam Yết mặc dù là trung tâm chỉ huy của địch trên quần đảo Trường Sa, nhưng chúng vẫn không thể kháng cự được. Trước khí thế tiến công như vũ bão của quân Giải phóng, chỉ huy quân địch buộc phải rút chạy. Chớp thời cơ, lực lượng của ta nhanh chóng giải phóng đảo. Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 27-5-1975, ta hoàn toàn làm chủ Nam Yết.
Tại đảo Sinh Tồn, sau khi nghe tin quân ta giải phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, quân địch trên đảo đã hoang mang dao động, rút chạy từ sáng ngày 27-4, nên lực lượng ta đổ bộ thuận lợi. Đúng 10 giờ 20 phút ngày 28-4-1975, ta làm chủ đảo hoàn toàn. Và đến 9 giờ sáng ngày 29-4-1975, phân đội chiến đấu cuối cùng của Lữ đoàn 126 đổ bộ làm chủ đảo Trường Sa. Từ đó đảo Trường Sa nói riêng và quần đảo Trường Sa nói chung bước vào thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Do ý thức đầy đủ rằng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam, một địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị và kinh tế, nên ngay từ đầu năm 1975, Quân chủng Hải quân cũng đã chỉ đạo lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa phải tích cực chuẩn bị các phương án và chuẩn bị tác chiến trên hướng biển, để khi thời cơ đến nhanh chóng hành động, giải phóng các đảo khi có lệnh và bảo đảm chắc thắng. Đồng thời phải bám sát tình hình, nếu phát hiện đối phương có biểu hiện hoang mang rối loạn, phải kiên quyết hành động ngay, không để chậm.
Theo PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng cho răng, đây là một trong những mũi tiến công thành công trong chiến dịch. Với một lực lượng ít, quân đội ta khắc phục mọi khó khăn: Tàu nhỏ, sóng lớn, phương hướng không xác định được cụ thể, chưa hiểu rõ kẻ thù phòng thủ như thế nào, lại đi ra ngoài biển trên 500 km… mà Hải quân nhân dân Việt Nam khi đó chấp hành triệt để lệnh cấp trên, ra đánh chiếm các đảo, đá mà quân đội Sài Gòn chiếm giữ, góp phần vào thắng lợi chung của đất nước.
Và việc Đảng ta chủ trương giành lại quần đảo Trường Sa từ sớm là một quyết định đúng đắn và rất kịp thời. Bởi thực tế khi đó, lực lượng hải quân của ta không mạnh, trang thiết bị không hiện đại, việc đi xa chiến đấu không hề đơn giản. Việc quân đội ta đã nhanh chóng giải phóng được các đảo và một số đá (là những rạn san hô lớn nổi lên) đã ngăn chặn kịp thời sự chiếm đóng, can thiệp của các lực lượng nước ngoài, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, đồng thời tránh được những sự phức tạp sau này.
Theo NAM PHƯƠNG (Báo Công Lý)