Khả năng diễn biến dịch COVID-19 ở TP.HCM sau ngày 25-8

25/08/2021 - 08:01

GS. Nguyễn Thiện Nhân, Đại biểu Quốc hội, đưa ra nhận định về tình hình dịch COVID-19 ở TP.HCM.

Làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ 4 ở Việt Nam, bắt đầu từ 13.5.2021 đến nay đã qua 100 ngày. Người dân rất quan tâm bao giờ dịch đạt đỉnh, bao giờ hết dịch, chúng ta cần làm gì để dịch kết thúc sớm. Ngày 11.3.2020, khi Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố dịch COVID-19 đã mang tính chất dịch toàn cầu, thì bình quân trên 1 triệu người dân có gần 10 người đang đuợc điều trị COVID-19. Chúng tôi sử dụng chỉ số 10 người đang được điều trị/1 triệu dân như ngưỡng có dịch của một nước, địa phương. Không có công thức nào cho phép tính ra thời gian dịch đạt đỉnh và sẽ kết thúc. Song bằng cách phân tích kĩ diễn biến của 4 làn sóng lây nhiễm ở Việt Nam, phân tích kĩ diễn biến dịch ở 4 địa phương Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh và TP.HCM, kết hợp với khuyến cáo của Tổ chức y tế Thế giới chúng ta có thể có được các gợi ý ít nhiều có cơ sở thực tiễn và khoa học để hình dung phần nào về diễn biến dịch ở TP.HCM sau 25.8.2021.

I. Sự khác biệt của làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 4 ở Việt Nam so với 3 làn sóng trước đó.

Sử dụng chỉ số “số người đang được điều trị COVID-19” của một địa phương để theo dõi diễn biến dịch, ta thấy từ năm 2020 đến tháng 4.2021, Việt Nam đã trải qua 3 làn sóng lây nhiễm với một số đặc trưng như sau, Bảng 1.

· Số người phải được điều trị tối đa trong 3 làn sóng lây nhiễm này là 169 (làn sóng 1), 492 (làn sóng 2) và 720 (làn sóng 3) đều thấp hơn ngưỡng có dịch của Việt Nam với dân số 97,6 triệu người là 976 người đang điều trị. Tức là chúng ta trải qua 3 làn sóng lây nhiễm, song với tư cách 1 quốc gia, Việt Nam có lây nhiễm, nhưng chưa có dịch COVID-19. Cho đến tháng 4.2021, chúng ta thuộc nhóm 23 nước chống dịch COVID-19 tốt nhất thế giới.

· Làn sóng lây nhiễm thứ 1 và thứ 2 diễn ra trong khoảng 2 tháng (59 ngày), còn làn sóng thứ 3 kéo dài 2 tháng 1 tuần (68 ngày).

· Thời gian các làn sóng giảm từ đỉnh xuống mức bình thường là 37 ngày và 38 ngày với làn sóng 1 và 2, 48 ngày với làn sóng 3. Tức là thời gian lây nhiễm xã hội giảm về bình thường (số người đang điều trị giảm từ đỉnh xuống thấp nhất) bằng 1,7 lần đến 2,4 lần thời gian lây nhiễm xã hội tăng từ thấp đến đỉnh, Bảng 1.

Đến làn sóng thứ 4, tình hình đã khác hẳn về chất, Bảng 1.

· Từ khi làn sóng thứ 4 bắt đầu, 13.5.2021, khi tổng số người đang điều trị COVID-19 ở Việt Nam là 984 người, vượt ngưỡng có dịch 976 người, đến nay đã qua 100 ngày (21.8.2021). So với thời gian đạt đỉnh của 3 làn sóng lây nhiễm trước (21 ngày) thì đã kéo dài gấp 5 lần, song làn sóng lây nhiễm thứ 4 chưa đạt đỉnh.

· Số người đang điều trị (ĐĐT) hiện nay là 185.000, tuy chưa đạt đỉnh, song đã gấp 190 lần ngưỡng có dịch của Việt Nam và gấp 255 lần đỉnh của làn sóng thứ 3 (720 người đang điều trị)

· Do chưa đạt đỉnh dịch nên không thể dự báo thời gian làn sóng thứ 4 này kéo dài bao lâu.

Bảng 1: Một số đặc điểm của 4 làn sóng lây nhiễm COVID-19 ở Việt Nam (ĐĐT: đang điều trị nhiễm COVID-19)

Giả sử bây giờ làn sóng thứ 4 đã đạt đỉnh, sau 100 ngày, thì thời gian để lây nhiễm giảm, trở lại trạng thái bình thường (số người đang điều trị dưới 1.000 người), với kinh nghiệm của 3 làn sóng trước, chưa có sử dụng vắc xin, sẽ khoảng 170 ngày đến 240 ngày, tức là dịch kết thúc vào khoảng 12.2021. Tuy nhiên việc dự báo thực tế khi nào dịch kết thúc sẽ không chính xác vì trong làn sóng thứ 4 có các yếu tố tác động ngược chiều nhau đến thời gian dịch kéo dài. Khi chúng ta đã tiêm vắc xin được cho hơn 70% dân số thì nhiều khả năng thời gian trở lại trạng thái bình thường sẽ ngắn hơn. Việc đỉnh làn sóng thứ 4 (số người đang điều trị hiện nay là 185.000) sẽ lớn hơn rất nhiều đỉnh làn sóng thứ 3 (720 người) sẽ kéo dài thời gian số người đang điều trị giảm dần về mức bình thường mới.

Do từ nay đến 11.2021 chưa thể tiêm vắc xin đủ 2 liều cho 70% dân số cả nước và tính chất của dịch COVID-19 với chủng Delta có nhiều yếu tố bất lợi, nên mặc dù nhiều địa phương đã thực hiện cách ly xã hội từ nhiều tuần nay, song chưa đủ cơ sở để dự báo lúc nào dịch kết thúc.

Từ các phân tích đặc điểm diễn biến lây nhiễm và dịch của Việt Nam và 4 tỉnh, thành phố có thể rút ra các nhận xét sau:

1. Ba làn sóng lây nhiễm đầu tiên của Việt Nam đều có đỉnh thấp hơn ngưỡng có dịch COVID-19 của Việt Nam (976 người ĐĐT), thời gian làn sóng đạt đỉnh Tlên khá giống nhau (20-21 ngày), thời gian lây nhiễm giảm từ đỉnh về bình thường Txuống (37 ngày đến 48 ngày) đều lớn hơn Tlên, tỉ lệ Txuống/Tlên từ 1,7 đến 2,4. Thời gian 3 làn sóng lây nhiễm diễn ra khá tương đồng là 2 tháng đến 2 tháng 1 tuần lễ (59 đến 68 ngày).

2. Làn sóng lây nhiễm thứ 4 của Việt Nam là làn sóng dịch COVID-19, với các chỉ số khác hẳn: sau 100 ngày (gấp 5 lần Tlên của 3 làn sóng trước) vẫn chưa đạt đỉnh, số người ĐĐT rất lớn (hơn 185.000 người) gấp 255 lần đỉnh làn sóng thứ 3 (720 người), số người chết tăng rất cao: làn sóng thứ 1 không có người chết, đến làn sóng thứ 2 có 35 người chết, làn sóng thứ 3 chỉ có 1 người chết, làn sóng thứ 4 đến nay đã có 7.676 người chết, gấp hơn 200 lần số người chết 3 làn sóng trước cộng lại. Đến 15.9.2021 số người chết trong làn sóng thứ 4 có thể hơn 10.000 người. Hiện nay chưa thể dự báo được làn sóng lây nhiễm thứ 4 - làn sóng dịch đầu tiên của Việt Nam sẽ kéo dài bao lâu, vì dịch chưa đạt đỉnh và có nhiều yếu tố chi phối trái chiều diễn biến dịch. Một khả năng là dịch sẽ kéo dài hơn 250 ngày, gấp 4 lần các làn sóng trước và dịch sẽ kết thúc (khi số người ĐĐT không quá 1.000 người) vào 12.2021.

3. Dịch COVID-19 ở 4 địa phương Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh và TP.HCM thể hiện sự thay đổi lớn của diễn biến dịch ở các tỉnh, thành phố trong làn sóng thứ 4 so với các làn sóng trước, Bảng 2.

Dịch ở Đà Nẵng (dân số 1,17 triệu người) có đỉnh là 281 người ĐĐT (240 người ĐĐT/1 triệu dân), gấp 23 lần ngưỡng có dịch của Đà Nẵng (12 người ĐĐT), kéo dài gần 2 tháng (56 ngày). Tỉ lệ Txuống/Tlên = 1,95, Bảng 2.

Dịch ở Bắc Giang (dân số 1,84 triệu người) có đỉnh là 4.283 người ĐĐT (2.328 người ĐĐT/1 triệu dân), gấp 225 lần ngưỡng có dịch của Bắc Giang (19 người ĐĐT), đến nay đã kéo dài 103 ngày mà chưa kết thúc (số người ĐĐT ngày 20.8.2021 là 930 người, gấp 49 lần ngưỡng có dịch), Bảng 2.

Dịch ở Bắc Ninh (dân số 1,42 triệu người) có đỉnh là 991 người ĐĐT (698 người ĐĐT/1 triệu dân), gấp 66 lần ngưỡng có dịch của Bắc Ninh (15 người ĐĐT), đã kéo dài 107 ngày mà chưa kết thúc (số người ĐĐT ngày 20.8.2021 là 514 người, gấp 34 lần ngưỡng có dịch), Bảng 2.

Bảng 2: Một số đặc điểm dịch ở Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh và TP.HCM (ĐĐT: Đang điều trị nhiễm COVID-19)

Điểm khác biệt nhất trong diễn biến dịch của Bắc Giang, Bắc Ninh so với Đà Nẵng là sau khi đạt đỉnh, số người ĐĐT không giảm liên tục và đạt mức trước khi có dịch như trường hợp ở Đà Nẵng với Txuống = 1,95 lần x Tlên, Bảng 2, mà sau khi số người ĐĐT giảm mạnh một thời gian thì lại giảm rất chậm, tạo thành điểm uốn phải U, Bảng 2 và gần đây không giảm tiếp mà lại tăng lên. Ở Bắc Giang, tại điểm uốn U, vào ngày 29.7.2021, số người ĐĐT là 1.158 người, bằng 27% đỉnh dịch (4.283 người ĐĐT), song vẫn gấp hơn 60 lần ngưỡng có dịch của Bắc Giang (19 người ĐĐT). Ngày 10.8.2021 số người ĐĐT giảm còn 903 người, song sau đó lại tăng lên, ngày 20.8.2021 là 930 người ĐĐT. Chính vì xuất hiện điểm uốn phải U mà dịch ở Bắc Giang đã kéo dài 103 ngày, song chưa biết bao giờ kết thúc (số người ĐĐT dưới 19 người). Với Bắc Ninh, điểm uốn U xuất hiện ngày 20.7.2021, với 471 người ĐĐT, bằng 48% đỉnh dịch (991 người ĐĐT), song vẫn gấp hơn 30 lần ngưỡng có dịch của Bắc Ninh (15 người ĐĐT), Bảng 2. Sau 107 ngày vẫn chưa biết bao giờ dịch ở Bắc Ninh kết thúc (số người ĐĐT dưới 15 người).

Từ hiện tượng xuất hiện điểm uốn phải trong dịch của Bắc Giang và Bắc Ninh, có thể dự báo diễn biến dịch của TP.HCM cũng có thể có điểm uốn phải, nhất là khi đỉnh dịch của TP.HCM sẽ cao hơn Bắc Giang nhiều (số người ĐĐT/1 triệu dân ở TP.HCM hiện nay là 8.681, gấp hơn 3,7 lần đỉnh dịch của Bắc Giang, 2.328 người ĐĐT/1 triệu dân). Tức là khả năng dịch kéo dài sau khi đạt đỉnh ở TP.HCM sẽ cao.

II. Về khả năng diễn biến dịch ở TP.HCM sau 25.8.2021

Do dịch ở TP.HCM chưa đạt đỉnh nên không có cơ sở để xem xét diễn biến dịch sau khi đạt đỉnh, trừ việc dự báo có thể có điểm uốn phải khi dịch giảm dần, làm thời gian dịch kéo dài.

Xem xét diễn biến dịch ở TP.HCM trong giai đoạn vừa qua, Bảng 2, ta thấy có một điểm khác thường so với diễn biến dịch ở Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh. Ở giai đoạn dịch tăng dần, chưa đạt đỉnh, tại Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh cũng như các địa phương khác như Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Dương, số người ĐĐT tăng dần từ thấp lên cao, đến khi đạt đỉnh, theo một đường trơn, không có gãy khúc, Bảng 2, cũng tương tự như diễn biến dịch của cả nước ở 3 làn sóng lây nhiễm trước, Bảng 1. Tuy nhiên tại đồ thị số người ĐĐT của làn sóng dịch TP.HCM chúng ta thấy xuất hiện điểm uốn U phía bên trái, Bảng 2.

Sau ngày 28.7.2021, khi số người ĐĐT là 56.959 người, thì đồ thị số người ĐĐT không tiếp tục đi lên theo xu hướng chung đã quan sát được ở các tỉnh, thành phố khác, đoạn U-A, Bảng 2, mà lại rẽ sang phải. Tức là số liệu thống kê số người ĐĐT thấp hơn là số người ĐĐT phải có theo “quy luật” chung ở các tỉnh, thành phố khác. Đây là tín hiệu vui vì chống dịch ở Thành phố hiệu quả cao, hay có một ý nghĩa khác phải được phân tích rõ để có giải pháp cần thiết phù hợp.

Số người ĐĐT ở các bệnh viện phụ thuộc vào số người nhiễm mới mỗi ngày (F0) được phát hiện và đưa vào bệnh viện và số người khỏi bệnh ra khỏi bệnh viện. Khi số F0 mới được đưa vào các bệnh viện và khu cách ly thì số người ĐĐT sẽ tăng và nếu có người khỏi bệnh được đưa ra khỏi bệnh viện thì sẽ làm số ĐĐT giảm.

Việc số người được phát hiện là F0 và đã vào các cơ sở điều trị ở TP.HCM thấp hơn xu hướng chung của dịch ở các địa phương khác đặt ra câu hỏi: Thành phố đã xét nghiệm đủ mức cần thiết để phát hiện được hầu hết các F0 chưa?

Theo tìm hiểu sơ bộ, thì cho đến hiện nay, ngành y tế chưa có hướng dẫn các tỉnh, thành phố, phải xét nghiệm với quy mô thế nào, so với dân số, để không để sót nhiều F0 mà lại không gây lãng phí, do đó các địa phương lúng túng trong việc xác định phải xét nghiệm bao nhiêu, ở đối tượng nào.

Từ đó dẫn tới 2 xu hướng: xét nghiệm quá nhiều, gây lãng phí và mất thời gian dành cho triển khai các giải pháp khác và xét nghiệm quá ít, để sót F0 không được phát hiện và đưa đi cách ly, làm cho lây nhiễm cộng đồng diễn ra âm thầm, không được ngăn chặn.

Về vấn đề này, ngày 12.5.2020 Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo: “Tỉ lệ xét nghiệm dương tính từ 3 đến 12% (3 đến 12% số người được xét nghiệm là dương tính với COVID-19) được coi là một chỉ số thể hiện các quốc gia đang xét nghiệm đủ số người cần thiết” (www:Coronavirus.jhu.edu). Có nghĩa là: nếu tỉ lệ dương tính dưới 3%, thì việc xét nghiệm có quy mô quá lớn, không cần thiết, có thể giảm. Còn nếu tỉ lệ dương tính trên 12% thì việc xét nghiệm có quy mô quá nhỏ, cần phải tăng thêm. Khi đã xác định được tương đối chính xác số F0 qua xét nghiệm trên địa bàn, từ đó tính tỉ lệ F0 phát sinh mỗi ngày/100.000 dân thì sẽ có cơ sở để xác định mức độ dịch lây lan trên địa bàn. Chúng ta cố gắng làm rõ, đối chiếu với khuyến cáo này của Tổ chức Y tế thế giới thì việc xét nghiệm ở TP.HCM trong đợt dịch này có đáp ứng hay không?

Hình 1 cho thấy số xét nghiệm được thực hiện bình quân mỗi ngày trong các quãng thời gian có số lượng xét nghiệm mỗi ngày gần với nhau (nếu số liệu từ các nguồn khác nhau có khác nhau thì lấy số trung bình của 2 số liệu để tính toán), số lượng F0 mới được phát hiện bình quân mỗi ngày và tỉ lệ dương tính bình quân mỗi ngày. Theo đó bình quân từ 5.7.2021 đến 8.7.2021 mỗi ngày có 306.559 xét nghiệm, từ 9.7 đến 13.7.2021 có 103.461 xét nghiệm mỗi ngày, từ 14.7 - 22.7.2021 có 147.518 xét nghiệm mỗi ngày, từ 23.7 - 30.7.2021 có 95.004 xét nghiệm mỗi ngày, còn từ 1.8 đến 10.8.2021 có 29.151 xét nghiệm mỗi ngày và từ 11.8 đến 18.8.2021 có 22.140 xét nghiệm mỗi ngày.

Tức là số lần xét nghiệm bình quân mỗi ngày trong vòng một tháng vừa qua ở TP.HCM thay đổi rất lớn. Đầu tháng 7.2021, khi số ca nhiễm F0 mới còn thấp (bình quân 724 F0 một ngày) thì có tới hơn 300.000 xét nghiệm mỗi ngày, còn trong 18 ngày đầu tháng 8.2021, khi số ca nhiễm mới đã ở mức cao (bình quân trên dưới 3.800 F0 mỗi ngày) thì bình quân mỗi ngày chỉ có 29.151 xét nghiệm (1.8 - 10.8.2021) và 22.140 xét nghiệm (11.8 - 18.8.2021), Hình 1. Đây rõ ràng là điều bất hợp lý: khi số ca F0 mới bình quân mỗi ngày tăng hơn 5 lần (724 ca, từ 5.7 đến 8.7.2021, lên khoảng 3.800 ca, từ 1.8 đến 18.8.2021) thì số xét nghiệm bình quân mỗi ngày lại giảm hơn 10 lần (từ hơn 300.000 xét nghiệm còn khoảng hơn 29.000), Hình 1. Tức là nguy cơ bỏ sót rất nhiều ca F0 là rất lớn. Tỉ lệ dương tính bình quân của các giai đoạn xét nghiệm từ đầu tháng 7.2021 đến giữa tháng 8.2021 tăng liên tục từ 0,24% lên 17,37%, Hình 1. Đối chiếu với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới thì từ 5.7 đến 22.7.2021, khi tỉ lệ dương tính dưới 3%, thì có nghĩa là quy mô xét nghiệm quá lớn, có thể giảm, còn từ 1.8.2021 đến nay, tỉ lệ dương tính là 14,15% đến 17,37%, Hình 1, đã vượt mức 12% dương tính được Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra làm tiêu chí là mức xét nghiệm hợp lý. Có nghĩa là từ ngày 1.8.2021 đến 18.8.2021 TP.HCM đã xét nghiệm quá ít, để sót rất nhiều F0 trong cộng đồng. Phải tăng số xét nghiệm đến khi nào tỉ lệ dương tính dưới 12% thì số F0 được phát hiện mới được coi là tương đối đầy đủ.

Hình 1: Xét nghiệm COVID-19 ở TP.HCM, số ca dương tính được phát hiện và tỉ lệ dương tính khi xét nghiệm

Chẳng hạn nếu số xét nghiệm mỗi ngày không phải ở mức 22.140 - 29.151 như thực tế đầu tháng 8.2021, mà ở mức khoảng 100.000 (như từ 23.7.2021 đến 31.7.2021, Hình 1), thì số ca F0 được phát hiện mỗi ngày đã cao hơn nhiều mức khoảng 3.800 ca như đã công bố từ 1.8.2021 đến nay. Đây chính là điều lý giải cho hiện tượng có điểm uốn trái U, trong đồ thị số người ĐĐT của làn sóng dịch TP.HCM hiện nay, Bảng 2. Nếu Thành phố xét nghiệm từ cuối tháng 7.2021 đến nay ở mức cao cần thiết theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, thì số ca F0 phát hiện sẽ phải cao hơn, do đó số người ĐĐT sẽ cao hơn không phải như đã công bố, mà theo xu hướng chung là đường U-A trong Bảng 2.

Hiện nay, chính số F0 chưa được phát hiện này (có thể đến hơn 10.000) đang lây nhiễm tiếp tục dù đã được đưa vào các khu cách ly hay đang ở nhà.

Vì vậy, khi từ 15.8.2021 đến 15.9.2021, TP.HCM thực hiện cách ly xã hội triệt để chúng ta sẽ ngăn chặn được lây nhiễm từ nhà này sang nhà khác, quận này sang quận khác, song không ngăn chặn được tiếp tục lây nhiễm trong gia đình, khi trong nhà có 1 F0 chưa được phát hiện. Ngày 13.8.2021 lãnh đạo Bộ Y tế đã đánh giá: hiện nay ở TP.HCM số xét nghiệm được thực hiện chủ yếu tại các đối tượng có triệu chứng nhiễm COVID-19 rõ. Nếu lấy xét nghiệm rộng hơn, số ca mắc trong cộng đồng có thể cao gấp 4-5 lần số đã ghi nhận và công bố. Theo ý kiến này, thì có nghĩa là đồ thị số người đang điều trị ở TP.HCM sau 1.8.2021 lệch sang phải, có điểm uốn trái, Bảng 2, là không phản ánh đúng số ca nhiễm F0 mỗi ngày và cần phải được đưa đi điều trị phù hợp.

Trong khi việc “đếm” số F0 phát sinh mỗi ngày qua xét nghiệm có thể có sai sót do xét nghiệm quá ít, thì việc đếm số ca bị chết có thể coi là chính xác, giúp ta hình dung số F0 thực tế. Đến nay TP.HCM đã có 6.349 người chết vì COVID-19. Nếu lấy tỉ lệ chết bình quân của cả nước là 2,36% tổng số người đã nhiễm (F0) làm cơ sở, thì số người đã nhiễm COVID-19 ở TP.HCM sẽ tương ứng 269.025 (6.349/2,36%), lớn hơn 90.000 F0 so với số 173.781 F0 đã ghi nhận và công bố.

Khả năng diễn biến dịch ở COVID-19 ở TP.HCM sau 25.8.2021:

·  Việc thực hiện cách ly xã hội triệt để từ 15.8.2021 đến 15.9.2021 sẽ làm số ca F0 mới giảm rất mạnh so với trước, song không làm giảm sự lây nhiễm tại các gia đình do đã có rất nhiều F0 không được phát hiện thời gian qua do xét nghiệm quá ít. Nếu không xét nghiệm gộp rộng rãi các gia đình, nhất là ở các địa bàn vừa qua có tỉ lệ lây nhiễm cao trên 100.000 dân, để phát hiện các gia đình có F0 này, mà chỉ căn cứ số F0 được phát hiện đã giảm rồi nới lỏng các biện pháp phòng chống dịch quá sớm thì sẽ làm dịch tiếp tục kéo dài sau 15.9.2021. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, chỉ khi nào tỉ lệ dương tính của địa phương, lãnh thổ nhỏ hơn 5% trong ít nhất 14 ngày thì việc nới lỏng mạnh mẽ kiểm soát dịch mới có thể an toàn.

· Do vừa qua xét nghiệm không đầy đủ nên số F0 cần điều trị phù hợp ngày 20.8.2021 không phải là 79.867 như thông tin đã công bố mà nhiều hơn.

Như vậy các F0 trở thành bệnh trung bình và nặng cần được điều trị (khoảng 20% số F0 hiện hành) sẽ cao hơn dự kiến hiện nay. Các bệnh viện và trung tâm điều trị COVID-19 sẽ tiếp tục phải làm việc với cường độ cao đến 15.9 hoặc lâu hơn nữa. Việc sử dụng các thuốc điều trị COVID-19 sẽ nâng cao đáng kể hiệu quả điều trị, giảm tỉ lệ tử vong.

· Nhờ sự quan tâm đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ, gần 80% người dân trên 18 tuổi ở Thành phố đã được tiêm 1 mũi vắc xin, qua đó giảm đáng kể nguy cơ bị bệnh nặng và tử vong với người đã tiêm phòng. Cùng cả nước, khi Thành phố hoàn thành tiêm mũi thứ 2 cho 80% người dân từ 18 tuổi trở lên thì sẽ có khả năng kết thúc dịch.

· Từ khi có dịch ở TP.HCM (29.5.2021) đến 15.9.2021 là 110 ngày. Hàng triệu hộ gia đình đã bị giảm hoặc mất thu nhập trong hơn 3 tháng qua, rất nhiều doanh nghiệp phải giảm hoặc ngừng hoạt động. Duy trì cuộc sống của hơn 10 triệu người dân và duy trì khả năng hoạt động của gần 300.000 doanh nghiệp ở TP.HCM, khi một khả năng là dịch có thể kết thúc (số người ĐĐT không quá 100 người ở TP.HCM) vào tháng 12.2021 (kể cả khi đã tiêm đủ 1 lần vắc xin cho 80% dân số), đòi hỏi ngay từ bây giờ phải xây dựng các kịch bản đảm bảo an sinh, an toàn, trật tự xã hội, bảo vệ năng lực kinh tế của quốc gia và TP.HCM từ nay đến hết quý 1.2022.

Từ bài học của TP.HCM, các địa phương đang có dịch nên khẩn trương rà soát quy mô xét nghiệm và tỉ lệ dương tính của mình và điều chỉnh theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới để phát hiện kịp thời hầu hết số F0 và có cách xử lý hợp lý nhất.

Theo GS. Nguyễn Thiện Nhân, Đại biểu Quốc hội (Theo Vietnamnet)