Cảng Container Quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng). Ảnh: ĐỨC KHÁNH
Là sáng kiến của ASEAN và bắt đầu được đàm phán từ năm 2012, nhiều nước Chủ tịch ASEAN trong những năm gần đây đều đề ra mục tiêu phải hoàn thành ký kết RCEP, nhưng vẫn chưa thành công do không giải quyết được hàng loạt vướng mắc trong đàm phán. Kế thừa những kết quả đó, khi đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, Việt Nam đã cùng ASEAN tích cực thảo luận với các nước đối tác để tìm kiếm giải pháp xử lý những vấn đề tồn đọng. Việc RCEP được ký kết khi Việt Nam đang giữ vai trò Chủ tịch ASEAN và Chủ tọa Hội nghị Bộ trưởng RCEP đã được quốc tế nói chung, các nước trong khối nói riêng đánh giá rất cao, thể hiện đóng góp lớn của ta trong việc định hình các cơ chế hợp tác mới cũng như luật chơi trong khu vực, tăng cường vị thế của đất nước.
Không chỉ là cơ hội mở cửa thị trường
Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh nhận định, RCEP đánh dấu mốc rất quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đó là chúng ta đã chuyển từ vị thế phải đi vận động để được tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thành vai trò tham gia thiết lập các định chế. Việt Nam đã là một trong những cường quốc về xuất khẩu và giờ lại trở thành một trong những người ban hành “luật chơi” trong kinh tế toàn cầu.
Trước tình hình thế giới đầy biến động, gây ra nhiều xáo trộn cho chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu. Theo Vụ trưởng Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) Lương Hoàng Thái, việc thực hiện RCEP còn giúp tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp, góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo một số nghiên cứu độc lập, thí dụ như của Ngân hàng Thế giới (WB), việc chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, giúp Việt Nam có cơ hội trở thành điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài. Đồng thời, quá trình này cũng sẽ giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước, tạo đà để ta tham gia sâu và ổn định hơn vào các chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, điểm mở rộng của RCEP so với các FTA ASEAN+1 đã có là cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối. Đây là yếu tố rất có lợi với các nước phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu như Việt Nam, giúp doanh nghiệp trong nước có thể tối ưu hóa sản xuất dựa vào nguồn cung đa dạng và mở rộng thị trường xuất khẩu. Thí dụ, ta có thể nhập khẩu hàng nông, thủy sản từ Australia, New Zealand,… để chế biến rồi xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong khi với những nước đã có nền sản xuất đạt tỷ lệ nội địa hóa cao với nhiều sản phẩm như Trung Quốc thì thuận lợi trên sẽ không đáng kể.
Trước những lo ngại về việc tham gia RCEP sẽ giúp hàng ngoại tràn ngập thị trường nội địa, ông Thái cũng cho biết, Việt Nam đã có Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) với các nước ASEAN cũng như các hiệp định FTA giữa nội khối ASEAN với các nước đối tác trong RCEP. Do đó, quá trình tự do hóa thuế quan của ta với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua, với các nước đối tác là khoảng 15 năm qua. Trong khi đó với RCEP, Việt Nam không cam kết mở cửa thị trường cao hơn cam kết trong ATIGA và các FTA ASEAN+1. Vì vậy, việc thực hiện RCEP sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam cũng như không tác động thêm làm hàng ngoại tràn ngập thị trường trong nước.
Vượt thách thức, khai thác tốt lợi ích từ RCEP
Tất nhiên, giống như các FTA khác, cơ hội mà RCEP mang lại cũng sẽ song hành cùng với khó khăn, thách thức. Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định, trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi từ ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, RCEP có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022 sẽ có tác động và cơ hội lớn tới nền kinh tế Việt Nam. Cơ hội có được từ RCEP là giúp nền kinh tế gia tăng xuất khẩu vào một số nền kinh tế lớn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu,… Nhưng Hiệp định này cũng đem đến nhiều thách thức về thương mại như nhập siêu từ các nước thành viên trong RCEP, khó khăn trong việc ứng phó với các rào cản, quy định mới. RCEP còn có thể dẫn đến sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam khi đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP cho thấy, nhiều đối tác có cơ cấu sản phẩm tương tự của chúng ta nhưng năng lực cạnh tranh lại mạnh hơn. Trong khi đó, chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn. Ngoài ra, hiện đầu vào sản xuất của Việt Nam còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại-dịch vụ toàn cầu của Việt Nam đang khá hạn chế.
Vì vậy, theo ông Dương, để khai thác tốt lợi ích do RCEP mang lại, doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ các cam kết của hiệp định như lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia RCEP, quy tắc xuất xứ, cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan, thuận lợi hóa thương mại,… Đồng thời, cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước các tác động bất lợi do RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa. Về thực thi chính sách, cần hài hòa giữa chính sách công nghiệp-đầu tư-thương mại, không tách rời với các FTA đã có như CPTPP, EVFTA; ứng phó với dòng vốn đầu tư nước ngoài dựa trên tiêu chuẩn. Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế Trịnh Minh Anh góp ý, các doanh nghiệp cần phải có hai chiến lược: Về ngắn hạn là chuẩn bị cho mình “chiến lược phòng thủ” để củng cố thị trường trong nước, bằng cách nâng cao chất lượng hàng hóa và nhận diện thương hiệu chuẩn xác. Với “chiến lược tấn công” để mở rộng diện xuất khẩu, doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch mở cửa thị trường, nhất là với các thị trường đã quen với mặt hàng có lợi thế.
Thực tế trước đây khi Việt Nam bắt đầu tham gia Hiệp định ASEAN năm 1996 hay Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 cũng bị đánh giá có trình độ phát triển kinh tế kém so nhiều nước khác. Nhưng đến nay, chúng ta đã trụ vững, thậm chí khẳng định tốt vị thế trong xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Tại “sân nhà”, tỷ lệ hàng hóa của nhập khẩu ở hệ thống bán lẻ trong giai đoạn hội nhập vừa qua cũng tăng không lớn, trong khi tỷ lệ hàng nội lại tăng mạnh, thậm chí chiếm đa số trong hàng hóa đang lưu thông trên thị trường. Rõ ràng, doanh nghiệp Việt Nam đã dần thích nghi với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng chủ động hơn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam giờ đây cũng đang tham gia nhiều “sân chơi” khác với mức độ hội nhập, cọ xát cao hơn nhiều so RCEP như CPTPP hay EVFTA. Cùng với việc đất nước tiếp tục có những cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư, chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam sẽ từng bước khắc phục được những thách thức hiện hữu để vươn lên khai thác tốt lợi ích do RCEP mang lại. “Với sự chuẩn bị kỹ càng, nhất là sự lớn mạnh của cộng đồng doanh nghiệp giai đoạn vừa qua trong việc vượt qua những thách thức và tận dụng cơ hội, tôi hoàn toàn tin tưởng khi thực thi RCEP, Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì được sự ổn định cũng như có những bước phát triển mới”, ông Lương Hoàng Thái khẳng định.
Theo NGUYỆT BẮC (Nhân Dân)