
Người dân trên địa bàn phường Rạch Giá test đường huyết, tầm soát bệnh đái tháo đường. Ảnh: MI NI
Theo số liệu điều tra tại Việt Nam năm 2020, cả nước có gần 7 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, chiếm 7,3% dân số. Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường ngoài cộng đồng trên địa bàn tỉnh chiếm khoảng 10 - 12% dân số. Tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang, trung bình mỗi ngày Khoa Khám bệnh tiếp nhận từ 300 - 400 bệnh nhân đái tháo đường đến khám bệnh; điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết - Cơ xương khớp khoảng 70 bệnh nhân.
Theo bác sĩ Huỳnh Văn Tính - Trưởng Khoa Nội tiết - Cơ xương khớp, Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang, bệnh đái tháo đường gây ra các biến chứng nặng. Bệnh là nguyên nhân chính dẫn đến suy thận, mức độ tổn thương nhẹ là tiểu đạm đến suy thận mạn tính. Biến chứng mắt, làm gia tăng bệnh võng mạc hay đục thủy tinh thể dẫn đến mù lòa. Biến chứng thần kinh ngoại biên làm cho bệnh nhân có cảm giác tê rát, châm chích hai chân, mất cảm giác ở bàn chân, bệnh nhân không nhận biết cảm giác nóng, đau. Biến chứng tim mạch như hẹp động mạch vành do xơ vữa mạch máu gây ra thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, suy tim. Biến chứng mạch máu ngoại biên có thể gây ra hoại tử bàn chân; biến chứng mạch máu não; biến chứng bàn chân đái tháo đường thường gây tàn phế do đoạn chi...
Bệnh nhân đái tháo đường có thể bị các biến chứng cấp tính, nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng như: Hôn mê do nhiễm ceton acid hay gặp ở người trẻ, tăng áp lực thẩm thấu máu hay gặp ở người lớn tuổi. Bệnh nhân đái tháo đường có thể bị hạ đường huyết gây nguy hiểm đến tính mạng trong quá trình điều trị do dùng thuốc quá liều, dùng thuốc mà hoạt động quá sức hoặc bỏ bữa ăn hoặc bị suy gan, suy thận… “Nếu người bệnh kiểm soát tốt đường huyết có thể ngăn chặn hoặc làm chậm, làm giảm các biến chứng của bệnh”, bác sĩ Huỳnh Văn Tính khẳng định.
Bà Trương Thị Kim Hà, ngụ phường Rạch Giá mắc bệnh đái tháo đường hơn 6 năm nhưng sức khỏe vẫn ổn định. “Từ khi phát hiện bệnh, tôi duy trì điều trị, tái khám định kỳ theo lời dặn của bác sĩ, thay đổi thói quen ăn uống, tuân thủ chế độ dinh dưỡng, tập thể dục đều đặn nên sức khỏe ổn định, chưa có biến chứng nguy hiểm”, bà Hà nói.
Bác sĩ Huỳnh Văn Tính cho biết, thực hiện chế độ ăn uống dành cho bệnh nhân đái tháo đường không có nghĩa là người bệnh phải kiêng khem quá mức, chế độ ăn hoàn toàn không có đường. Việc ăn uống đúng cách là quan trọng nhất, quyết định nhiều đến sự ổn định đường huyết cũng như tình trạng bệnh của bệnh nhân đái tháo đường. Người bệnh cần thực hiện các nguyên tắc ăn uống như ăn nhiều rau quả, chất xơ; hạn chế chất đường, tinh bột, chất béo, muối, thức ăn nhanh chế biến sẵn, rượu, bia. Người bệnh nên ăn 3 bữa trong ngày gồm sáng, trưa, chiều và có thể thêm 1 hoặc 2 bữa phụ khi sử dụng insulin; ăn chậm, nhai kỹ, dừng lại khi thấy vừa đủ no. Cách chế biến thực phẩm chủ yếu là luộc, kho, hầm, hấp, hạn chế chiên, xào, nướng.
Việc kiểm soát tốt đường huyết giúp làm chậm các biến chứng do đái tháo đường gây ra. Điều quan trọng nhất để có sức khỏe tốt vẫn là chủ động phòng ngừa để không mắc bệnh từ đầu. Để phòng bệnh đái tháo đường, bác sĩ Huỳnh Văn Tính khuyến cáo, mỗi người dân cần có chế độ dinh dưỡng lành mạnh, duy trì cân nặng hợp lý, tăng cường vận động thể lực ít nhất 30 phút mỗi ngày, không hút thuốc, không lạm dụng rượu, bia. Người dân thường xuyên kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm đường máu tại các cơ sở y tế, nhất là người trên 40 tuổi để phát hiện bệnh sớm.
| Ngày 14/11 hằng năm được Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) chọn là ngày Thế giới phòng, chống đái tháo đường nhằm nâng cao nhận thức toàn cầu về căn bệnh này. Từ năm 1991, chiến dịch mỗi năm có một chủ đề riêng. Năm nay, với chủ đề “Bệnh đái tháo đường và sự khỏe mạnh toàn diện” nhằm nhấn mạnh vai trò chăm sóc sức khỏe cá nhân và trách nhiệm chung của toàn xã hội. |
MI NI