Theo ông Châu, ông thiếu tiền nợ vay và nợ hụi của bà Tôn Lì Siêu (cùng ngụ thị trấn Tri Tôn). Ngày 9/3/2021, TAND huyện Tri Tôn thụ lý vụ án dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và góp hụi” theo đơn khởi kiện của bà Tôn Lì Siêu, yêu cầu ông trả tổng cộng 1 tỷ đồng. TAND huyện cũng ban hành Quyết định 18/2021/QĐST-DS, ngày 7/5/2021 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ông đồng ý trả tiền dần cho bà Siêu.
“Sau đó, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Tri Tôn ra quyết định thi hành án. Tôi trình bày hoàn cảnh khó khăn, trước đó có thỏa thuận trả 2 triệu đồng/tháng cho bà Siêu, thực hiện được 2 năm. Cơ quan THADS ra quyết định tạm hoãn. Thế nhưng, TAND huyện Tri Tôn tiếp tục đến đo đạc căn nhà của tôi đang ở để thi hành án cho bà Siêu. Hơn nữa, căn nhà này tôi đã chuyển nhượng cho người khác (có hợp đồng công chứng đúng quy định). Rất mong các cấp thẩm quyền xem xét, đảm bảo quyền lợi và công bằng cho tôi”- ông Châu đề nghị.
Về phía bà Siêu cho rằng: “Ông Châu thiếu nợ tôi gần 1 tỷ đồng, cứ hứa hẹn trả nhưng không thực hiện. Sau đó, ông trả mỗi tháng 2 triệu đồng, trả được hơn 1 năm. Tôi khởi kiện đến TAND huyện nhờ giải quyết. Ngày 7/5/2021, TAND huyện ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đôi bên, ông Châu hứa sẽ trả nợ cho tôi. Thế nhưng, sau khi tôi có đơn yêu cầu thi hành án đến nay, ông Châu không trả nợ cho tôi thêm đồng nào. Do vậy, vừa qua, tôi yêu cầu TAND huyện Tri Tôn xác định tài sản của ông Châu là căn nhà 54,7m2 (đang đứng tên vợ chồng ông Châu) để đảm bảo cho việc thi hành án trả nợ cho tôi. Rất mong cơ quan pháp luật sớm giải quyết để tôi được nhận lại số tiền bị nợ”.
Trao đổi với phóng viên, đại diện TAND huyện Tri Tôn cho biết, theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 18/2021/QĐST-DS, ngày 7/5/2021, ông Huỳnh Hữu Châu thống nhất nợ bà Tôn Lì Siêu tiền nợ vay và nợ hụi tổng cộng 1 tỷ đồng, không tính lãi tiếp theo; đôi bên thống nhất phương thức thanh toán nợ sẽ giải quyết tại giai đoạn thi hành án. Sau đó, bà Siêu có đơn yêu cầu thi hành án, ngày 3/6/2021, Chi cục THADS huyện ra Quyết định 620/QĐ-CCTHADS thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, ông Châu không tự nguyện thi hành. Ngày 22/6/2021, Chi cục THADS huyện Tri Tôn ra quyết định cưỡng chế, kê biên xử lý tài sản của ông Châu, gồm: Thửa đất 164, tờ bản đồ số 34, diện tích 54,7m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH05799 (do UBND huyện Tri Tôn cấp ngày 13/5/2016, mang tên ông Châu và vợ là Vương Bích Dung); thửa đất 60, tờ bản đồ số 5, diện tích 2.157,2m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00717 (do UBND huyện Tri Tôn cấp ngày 15/6/2009 mang tên vợ chồng ông Châu).
Đồng thời, ngày 12/10/2021, Chi cục THADS huyện Tri Tôn ra thông báo hợp lệ đến vợ chồng ông Châu về việc xác định, tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, nhưng họ không thực hiện phân chia. Vì vậy, chấp hành viên đã ra thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng, để Chi cục THADS huyện Tri Tôn có căn cứ thi hành.
Ngày 23/3/2022, TAND huyện Tri Tôn thụ lý hồ sơ vụ án dân sự giữa bà Siêu (nguyên đơn) đối với ông Châu và bà Dung (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan). Hòa giải tại tòa, bà Siêu chỉ yêu cầu xác định thửa đất 164 (không yêu cầu phần thửa đất 60). Ông Châu cho rằng, phần đất này do vợ chồng ông đứng tên, nhưng hiện tại đã chuyển nhượng cho cho vợ chồng ông Vương Thoại Sương, Huỳnh Huệ Anh để trừ nợ, có hợp đồng công chứng ngày 2/6/2021.
Về nguyên tắc sau khi thụ lý hồ sơ, tòa án tiến hành đo đạc thẩm định, nhưng phía gia đình ông Châu ngăn cản không cho đo đạc. Do vậy, để có cơ sở giải quyết vụ án, hiện tại, tòa án sẽ đưa vợ chồng ông Sương vào tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đồng thời có văn bản yêu cầu Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh huyện Tri Tôn cho biết phần đất diện tích 54,7m2 nêu trên có chuyển nhượng cho người nào khác mà người nhận chuyển nhượng đã được đăng ký vào Sổ địa chính hay chưa.
Khoản 3, Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính”. Nếu có thì người nhận chuyển họ tên, năm sinh, địa chỉ và cung cấp bản sao của việc đăng ký Sổ địa chính đất nói trên, nhằm củng cố thêm chứng cứ giải quyết trong thời gian tới. Tòa án sẽ tiếp tục mời đôi bên đến hòa giải, giải thích, đồng thời vẫn tiến hành đo đạc thẩm định để đủ cơ sở chứng cứ giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục quy định.
K.N