Nhẫn Nandin Giồng Cát
Hiện vật này được phát hiện tại cuộc khai quật di tích Gò Giồng Cát năm 2018; ở tầng văn hóa ổn định, không bị xáo trộn, sâu khoảng 1,5m so với lớp đất mặt, thuộc giai đoạn thế kỷ III - V. Nhẫn được chế tác bằng chất liệu vàng, kết hợp giữa kỹ thuật đúc và chạm kim loại.
Mặt nhẫn là hình tượng bò Nandin trong tư thế nằm xếp chân, hai bên thành nhẫn phía trước và phía sau của con bò được trang trí hoa văn cánh hoa sen và chiếc đinh ba. Bò thần Nadin là biểu tượng vật cưỡi của thần Shiva - 1 trong 3 vị thần huyền thoại của Hindu giáo.

Hiện vật được chế tác với những chi tiết nhỏ, tinh tế. Người thợ kim hoàn thời kỳ này đã rất thành thục kỹ thuật chế tác phức tạp, đạt tới trình độ điêu luyện từ luyện vàng đến khâu đúc, dát mỏng, kéo thành sợi, cắt, dũa.Đây là hiện vật nhẫn Nandin duy nhất phát hiện trong địa tầng khảo cổ cho đến nay. Điều này giúp tăng giá trị của hiện vật, có thể xác định niên đại hiện vật một cách tương đối chính xác.
Phù điêu Phật Linh Sơn Bắc
Hiện vật được phát hiện trong cuộc khai quật khảo cổ ở di tích Linh Sơn Bắc năm 2019, thuộc quần thể di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo - Ba Thê, nằm trong lớp văn hóa có niên đại khoảng từ thế kỷ I - IV, tầng văn hóa ổn định, không bị xáo trộn.

Hiện vật là bức phù điêu chạm khắc nổi hình Phật trên mặt phẳng một khối đá granite lớn. Bức phù điêu chỉ khắc họa rõ hình tượng của Phật đang tọa thiền, còn các chi tiết khác đơn giản với đặc điểm nổi bật là mắt khoét sâu to, rộng. Đầu tóc, nét mặt và quần áo không được khắc họa một cách rõ nét.
Đức Phật được chạm khắc trong tư thế ngồi thiền, hai bàn tay chắp trước ngực trong tư thế thủ Ấn vô úy (abhaya-mudra). Trong ấn này, hai bàn tay với các ngón tay duỗi ra hướng về phía trước, ngang tầm vai.
Đây là ấn quyết mà Phật Thích Ca sử dụng ngay sau khi đắc đạo. Hai chân của Đức Phật được khắc trong tư thế ngồi thiền bán già trên bệ, chân phải gác lên bắp chân trái. Phía bên dưới của bức tượng Phật có khắc 3 chữ Sanskrit theo phong cách văn tự Brahmi của Nam Ấn Độ.
Mukhalinga Ba Thê
Được phát hiện năm 1986, hiện vật Mukhalinga Ba Thê cao 91cm, nặng 90kg, chất liệu chính là sa thạch hạt mịn màu xám đen, bề mặt có lớp patin màu xám ghi sáng, được xác định là hiện vật vô cùng quý. Mukhalinga là loại hình vật thờ rất đặc thù, độc đáo so với những hiện vật cùng loại thuộc văn hóa Óc Eo đã được phát hiện ở đồng bằng sông Mekong.

Mukhalinga là loại linga ba phần có khuôn mặt, trong đó phần hình trụ tròn có khắc khuôn mặt thần Shiva dưới dạng phù điêu. Khuôn mặt thần Shiva tròn đầy đặn với chi tiết mắt, mũi, miệng rõ nét, tai dài có đeo khuyên lớn.
Đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc
Hiện vật được chế tác hoàn thiện, thể hiện phần đầu của đức Phật cùng với vòm rắn Naga 5 đầu tỏa ra từ phía sau tạo thành tán che trên đầu. Hiện vật được tìm thấy trong tích tụ văn hóa bên cạnh các di vật gốm, ngói lợp, đèn dầu kiểu Ấn Độ, tượng thờ, văn bia…, các lớp kiến trúc tôn giáo thuộc nhiều giai đoạn khác nhau từ thế kỷ I - II đến thế kỷ IX - XII.

Đức Phật được thể hiện khá đơn giản, nhưng vẫn rõ nét đặc điểm cơ bản, với phần tóc được nhận diện qua vành chỉ chìm chạy quanh trên trán và các quý tướng của đức Phật: Gần giữa đỉnh đầu có khối Urnisa (nhục kế) đặc trưng; đôi tai lớn và dài, dái tai bên trái còn nguyên thể hiện to mọng. Khuôn mặt trái xoan đầy đặn, dài với cằm khá to. Đôi mắt thể hiện khép hờ nhìn hướng thấp về phía trước, mũi to đầy đặn, đôi môi dày khép nhẹ và có hai khóe môi cân đối ở hai bên.
Vòm rắn Naga phía sau xòe rộng được bố cục cân đối trong khuôn hình tròn (với một đầu ở chính giữa, hai cặp đầu rắn đối xứng, cùng nhìn hướng vào trung tâm từ hai bên).
Mộ vò Gò Cây Trâm
Hiện vật được tìm thấy trong cuộc khai quật vào năm 2018, tại di tích Gò Cây Trâm trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo - Ba Thê. Bề mặt thân gốm có dấu văn thừng của kỹ thuật chế tác bằng bàn đập hòn kê đã được xoa, miết để xóa mờ trước khi phủ lớp áo mỏng màu vàng cam bên ngoài. Trên thân có 6 lỗ nhỏ tương thích với biểu hiện của một khuôn mặt gồm lỗ tai, mắt, mũi và miệng, ở đáy bình cũng có 2 lỗ đục thủng tròn nhỏ.

Nắp đậy hình đĩa có vành móc tròn nhỏ, cũng được làm bằng chất liệu gốm mịn, màu vàng cam, được làm bằng kỹ thuật dải cuộn với những đường rãnh lõm xoáy trôn ốc đều đặn ở mặt trên lòng nắp, ngoài ra còn kết hợp các kỹ thuật xoa, miết láng và đắp nối.
Trong vò phát hiện được mảnh xương, răng hàm, xương hốc mắt, được xác định đây là mộ của đứa trẻ khoảng 7 - 8 tuổi. Hiện vật tùy táng gồm 1 mảnh vàng và 16 hạt thủy tinh màu. Đặc điểm chất liệu, loại hình và kỹ thuật chế tác cho thấy bình gốm và nắp đậy thuộc cùng giai đoạn sớm của văn hóa Óc Eo (thế kỷ I - III sau Công nguyên).
KHÁNH MY