Bác Hồ và Bác Tôn
Trong điếu văn đọc tại lễ truy điệu Bác Tôn, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã khẳng định đồng chí Tôn Đức Thắng “là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta, là một trong những người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”.
Từ một học sinh học nghề thợ tại Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã nhanh chóng hòa mình vào các phong trào yêu nước của Nhân dân khi ấy: Tham gia cuộc bãi công của học sinh Trường Bá nghệ Sài Gòn và công nhân nhà máy sửa chữa tàu thủy Ba Son vào năm 1912.
Những ngày bị bắt đi lính trong một đơn vị hải quân Pháp - năm 1919, trên Biển Đen, Tôn Đức Thắng kéo lá cờ phản chiến chống lại cuộc can thiệp của đế quốc Pháp vào Nhà nước Xô Viết non trẻ, trở thành một trong những người Việt Nam đầu tiên trực tiếp tham gia đấu tranh để ủng hộ Nhà nước Xô viết.
Trở về Sài Gòn những năm hai mươi của thế kỷ XX, Tôn Đức Thắng trực tiếp lãnh đạo và xây dựng những cơ sở Công hội bí mật. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son tháng 8/1925 nổ ra do chính Tôn Đức Thắng lãnh đạo. Người là một trong những công nhân đầu tiên nhận ra chân lý của con đường cách mạng vô sản.
Bước ngoặt lớn trong cuộc đời Bác Tôn chính là năm 1926, nhận được chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, Người đã gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Chỉ 1 năm sau được bầu vào Ban Chấp hành Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam kỳ; trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1929, khi phong trào cách mạng đang phát triển mạnh, Tôn Đức Thắng bị giặc bắt. Trải qua bao cực hình tra tấn, Người vẫn làm cho kẻ thù thất bại trước khí phách kiên cường bất khuất của mình. Chế độ lao tù hà khắc không giam được lòng nhiệt huyết, trái tim của những người cộng sản quyết chí chọn con đường đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của đồng bào.
Tôn Đức Thắng đã cùng đồng chí thành lập chi bộ đặc biệt trong nhà tù, lãnh đạo họ tiếp tục đấu tranh, gửi trọn niềm tin vào Đảng quang vinh, vào ngày thắng lợi của dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công, cùng những đồng chí sống sót qua ngục tù Côn Đảo, Tôn Đức Thắng được đón về đất liền để tiếp tục con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (1946), trên đoàn Chủ tịch Quốc hội, người chiến sĩ Tôn Đức Thắng nhân danh Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố tín nhiệm hoàn toàn cụ Hồ Chí Minh đứng ra thành lập Chính phủ mới. Đây là lời tuyên bố của lịch sử, của đồng bào cả nước, tin tưởng tuyệt đối vào lãnh tụ Hồ Chí Minh và sẵn sàng cho một cuộc trường kỳ kháng chiến để giành lại những quyền thiêng liêng cơ bản của con người.
Gánh trên vai nhiều trọng trách, trải qua rất nhiều cương vị, nhưng dù ở cương vị nào, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng luôn nêu cao phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Đảng, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Không muốn sống khác đồng bào, đồng chí, nên cuộc sống đời thường của Bác Tôn giản dị, thanh bạch. Là Chủ tịch nước, nhưng Bác vẫn mặc áo cũ nối thêm tay, bởi theo Bác: “Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn”. Ngoài giờ làm việc, Bác vẫn chân đất, quần cộc bên đống đồ nghề tự chữa đồ đạc, xe đạp cho con cháu và cả những người phục vụ của mình. Đi công tác nước ngoài, Bác chỉ mua tặng vợ chiếc cối xay tiêu.
Khi mất, Bác dặn con cháu trả lại nhà cho Nhà nước để chuyển đến chỗ ở đúng với tiêu chuẩn của mình... Là người Việt Nam đầu tiên được nhận Giải thưởng Lê-nin “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc”, số tiền thưởng kèm theo giải thưởng vô cùng lớn, nhưng Bác trao lại toàn bộ cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam để xây dựng cơ sở phúc lợi vui chơi giải trí cho thiếu nhi.
Ngày 19/8/1958, nhân dịp Bác Tôn tròn 70 tuổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định trao tặng Huân chương Sao vàng. Trong buổi lễ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng: “Thưa lão đồng chí, hôm nay, chúng tôi rất sung sướng chúc mừng đồng chí 70 tuổi. Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để gìn giữ hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân.
Thay mặt Nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”.
Cuộc đời của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là cuộc đời của một người cộng sản chân chính đã theo đuổi lý tưởng và đi trọn trên hành trình lý tưởng vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của Nhân dân. Cuộc đời Bác Tôn là hiện thân của đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
TS VŨ TRUNG KIÊN (học viện Chính trị khu vực II)