Một góc không gian triển lãm di sản tư liệu "Tết xưa" do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tổ chức. (Ảnh VY VY)
Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, thuật ngữ “di sản tư liệu” mới được nhắc đến nhiều và dần trở nên quen thuộc với công chúng, dù di sản đã được hình thành cùng dòng chảy hàng nghìn năm lịch sử.
Để di sản “kể chuyện”
Mốc thời gian để giá trị di sản tư liệu vượt ra khỏi phạm vi hẹp của giới học thuật, nghiên cứu, để bắt đầu đến gần hơn với công chúng là năm 2009, khi một loạt di sản tư liệu của chúng ta được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO vinh danh. Ðó là ba di sản tư liệu thế giới gồm: Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, 82 bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám; và bốn di sản tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm: Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, Mộc bản trường Phúc Giang và Hoàng Hoa sứ trình đồ (Hành trình đi sứ Trung Hoa). Trải qua bao thăng trầm thời gian cùng binh biến lịch sử, nhiều khối di sản tư liệu đã không còn nguyên vẹn mà bị hư hại, mất mát. Song những gì tồn tại đến hôm nay chính là nguồn tài sản vô giá phản ánh thành tựu sáng tạo của đất nước, dân tộc qua các thời kỳ khác nhau, cũng là những cứ liệu quan trọng khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Những giá trị của di sản tư liệu phải được gìn giữ, phát huy để giáo dục truyền thống lịch sử, bồi đắp niềm tự hào, tinh thần dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Do đó, bên cạnh những biện pháp kỹ thuật như phục chế, bảo quản, số hóa dữ liệu nhằm kéo dài tuổi thọ cho tài liệu, vấn đề quan trọng là cần thổi hồn cho di sản, để di sản tư liệu có thể kể những câu chuyện của chính mình một cách sinh động, gần gũi, chinh phục được nhiều đối tượng công chúng. Và đây là hành trình không hề đơn giản.
Thạc sĩ Nguyễn Thu Hoài, Phó Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia I - nơi đang bảo quản di sản tư liệu Châu bản triều Nguyễn cho hay: Ðể tiếp cận những loại hình di sản văn hóa thiên nhiên hay di sản văn hóa phi vật thể như ca trù, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… công chúng có thể trực tiếp đến tham quan, thưởng thức. Nhưng muốn tiếp cận bản gốc những di sản tư liệu thì không dễ dàng như vậy, bởi đây chủ yếu là những tài liệu mang tính thông tin, được ghi chép lại trên những phương tiện truyền tin như giấy, gỗ, băng ghi âm, ghi hình, hình ảnh… được bảo quản nghiêm cẩn ở các cơ quan lưu trữ. Các thông tin vốn dĩ khô khan, hình thành từ lịch sử đã xa, lại phần lớn viết bằng chữ Hán-Nôm nên không nhiều đối tượng công chúng có thể hiểu. Vì thế, để người dân được thụ hưởng những giá trị của di sản tư liệu, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp tác động.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở biên dịch, tổ chức sắp xếp nội dung thì cơ sở dữ liệu tốt đến mấy cũng sẽ chỉ có những nhà nghiên cứu tìm đến. Muốn thu hút đông đảo công chúng, còn cần đa dạng hóa cách thức tiếp cận thông qua thực hiện những bài viết tuyên truyền, những ấn bản phẩm, đặc biệt là những cuộc trưng bày, triển lãm di sản tư liệu. Quá trình này cần đến sự bắt tay thật chặt giữa những người làm lưu trữ với các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa và chuyên gia công nghệ.
Theo dõi các triển lãm về di sản tư liệu được thực hiện những năm gần đây như: “Khoa cử Việt Nam xưa trong di sản tư liệu thế giới”, “Quốc hiệu và Kinh đô nước Việt trong Mộc bản Triều Nguyễn-Di sản tư liệu thế giới”, “Làng nghề, phố nghề Thăng Long-Hà Nội”, “Cung đình đón Tết”, “Tết xưa”, “Thuật trị quốc của Hoàng đế Minh Mạng qua di sản tư liệu thế giới Châu bản triều Nguyễn”…, đặc biệt là một số triển lãm trực tuyến được các cơ quan lưu trữ thực hiện gần đây như: Triển lãm 3D “Giáo dục triều Nguyễn-Vang vọng còn lại”, triển lãm 3D “Ký ức chợ xưa”, có thể thấy những thông tin lưu trữ khô khan đã bước ra khỏi khái niệm tư liệu để hiện lên gần gũi, chân thực, sống động.
Những triển lãm tái hiện không gian phố nghề xưa, làm sống lại ký ức của những phiên chợ truyền thống, hay nhắc nhớ về những phong tục Tết cổ truyền, làm nổi bật triết lý giáo dục của những vị vua triều Nguyễn… không đơn thuần chỉ là đưa ra hình ảnh của tài liệu, mà những thông tin lưu trữ đã được xâu chuỗi, kết nối để chuyển tải đến công chúng những câu chuyện mang thông điệp, chủ đề riêng.
Thạc sĩ Nguyễn Thu Hoài chia sẻ, để “công chúng hóa” di sản tư liệu, tức để nhiều đối tượng công chúng có thể tiếp cận và hiểu về tư liệu, không những cần quá trình nghiên cứu sâu để tìm tòi, lựa chọn những nội dung nổi bật đưa ra giới thiệu mà còn cần khả năng liên kết với tư liệu bổ trợ từ nhiều nguồn khác nhau để tạo tính xâu chuỗi, kết nối thông tin, sao cho thực hiện tốt nhất khả năng tuyên truyền, giáo dục của tài liệu lưu trữ.
Chẳng hạn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I hiện chỉ đang bảo quản khối tài liệu thuộc về triều Nguyễn và thời Pháp thuộc, nhưng khi thực hiện các triển lãm chuyên đề, trung tâm vẫn cố gắng liên kết với các nguồn thông tin của các trung tâm II, III, IV, các thông tin của Văn Miếu-Quốc Tử Giám, hệ thống các di tích, di sản ở Huế hay các kho lưu trữ nước ngoài, đặc biệt là ở Pháp để mang đến những thông tin trọn vẹn, dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Thậm chí, như ở triển lãm về “Làng nghề, phố nghề Thăng Long-Hà Nội”, Trung tâm còn mời đến những nghệ nhân trực tiếp thực hiện các sản phẩm làng nghề để công chúng có sự liên tưởng chân thực nhất giữa tài liệu và thực tiễn.
Triển lãm trực tuyến 3D “Giáo dục triều Nguyễn - Vang vọng còn lại”.
Tạo điểm nhấn cho di sản
Bên cạnh yếu tố nội dung, dễ nhận ra trong các không gian trưng bày tài liệu lưu trữ gần đây, vai trò của công nghệ đồ họa ngày càng được khẳng định. Nhà sản xuất Nguyễn Uyên, người từng có nhiều năm thực hiện các clip, phim quảng bá về di sản tư liệu chia sẻ: Thời gian đầu mày mò, thử nghiệm, ê-kíp sử dụng chủ yếu hình ảnh ngoại cảnh là các công trình, di tích, danh lam thắng cảnh, bối cảnh lịch sử, con người được nhắc đến; các trang tư liệu chủ yếu được để định dạng là bản scan toàn văn, có tính chất giới thiệu. Về mặt thị giác, sản phẩm phần nào đã tạo được sức hút nhưng chưa đạt đến chất lượng mang giá trị cả về nội dung và nghệ thuật như kỳ vọng.
Dần dần, khi tiếp cận tài liệu theo từng chủ đề, nội dung riêng, những người thực hiện nhận ra dù kịch bản chỉ dựa hoàn toàn vào tài liệu nhưng lại tiệm cận được tiêu chí của kịch bản truyền hình đúng nghĩa (có tình tiết, mạch chuyện, nhân vật) để làm cơ sở dựng lên câu chuyện bằng hình. Lấy thí dụ về việc tạo hình cho những văn bản Châu bản, nhà sản xuất Nguyễn Uyên cho biết ê-kíp đã trải qua hành trình thử nghiệm nhiều phương pháp nhưng trước tiên luôn coi mỗi trang văn bản là nhân vật kể chuyện chính để tự dẫn dắt câu chuyện của mình. “Dựa vào nội dung từng kịch bản, chúng tôi cố gắng tạo ra những bối cảnh, không gian phù hợp.
Thí dụ nói đến Tết sẽ có mai có đào; nói đến học hành thi cử sẽ có bút nghiên, giấy mực; nói đến nhân vật lịch sử có địa danh, chân dung, kỷ vật… Thậm chí là tạo cả một “trường quay” cho riêng tài liệu với không gian mang tính lịch sử, có thể là trong kho lưu trữ, hoặc đặt bên cạnh những tấm ảnh cũ, những đạo cụ xưa như sách cổ, hoặc tạo sự chuyển động và biến hóa của các con chữ trên văn bản… Cùng với sự hỗ trợ của các thiết bị ánh sáng để tạo hiệu ứng sáng-tối, điểm nhấn cho các đoạn trích quan trọng trong văn bản và làm cho không gian chung quanh nghệ thuật hơn, mang nhiều ẩn ý, tạo sự tò mò cho người xem”- nhà sản xuất Nguyễn Uyên nhấn mạnh.
Cùng với hình ảnh tài liệu thì những hình ảnh ngoại cảnh, hình ảnh minh họa mang tính lịch sử như những video, phim ảnh cũ, dấu tích các công trình, đồ họa hoạt hình… cũng là những yếu tố được khai thác khéo léo để người xem có được những liên tưởng giữa nội dung văn bản với bối cảnh lịch sử và đương đại…
Thực tế là những triển lãm gần đây về di sản tư liệu, do được đầu tư về cả nội dung, hình ảnh đã thu hút không chỉ giới học thuật mà còn hấp dẫn nhiều đối tượng công chúng, đặc biệt là giới trẻ, trong đó có nhiều đối tượng du khách đến từ các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Nga… Số lượt ghé thăm các triển lãm trực tuyến lên đến hàng triệu lượt, số bình luận tích cực cũng ngày càng tăng.
Ðiều này khẳng định, những thông tin tưởng chừng khô cứng trong di sản tư liệu khi được khai thác một cách sáng tạo sẽ tạo được sức lan tỏa lớn. Và việc liên kết các dữ liệu gắn với tài liệu, được công nghệ hỗ trợ để hiện thực hóa những câu chuyện của lịch sử bằng nhiều hình thức chính là hướng đi, cũng là giải pháp để đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị to lớn của di sản tư liệu Việt Nam.
Theo TRANG ANH (Nhân Dân)