Gạo nếp thường được dùng nấu xôi, chè, làm bánh (bánh khảo, bánh chưng, nếp, bánh gai, bánh nướng...). Đặc biệt, gạo nếp còn có tác dụng chữa bệnh mà ít người biết đến.
Theo quan điểm của y học cổ truyền, gạo nếp tính ấm, vị ngọt, tác dụng bổ khí kiện tỳ vị chỉ tả, ôn ấm trung tiêu, cố biểu liễm hãn (giảm tiết mồ hôi) và giảm đi tiểu thường xuyên.
Gạo nếp bổ trung, ích khí, kiện tỳ dưỡng vị, ích phế, chỉ hãn. Chữa trị các chứng ít sữa, ho ra máu, tỳ hư, vị hư, đau đầu hoa mắt chóng mặt, rự hãn, vị quản cửu thống, dạo hãn, loét dạ dày, xót ruột, hư lao tiết tả.
Bài thuốc kết hợp cùng gạo nếp
Chữa chứng ho ra máu, thuộc chứng phế âm hư: A giao 60g, nhu mễ 40g, mã đậu linh 20g, ngưu bàng tử 10g, chích thảo 10g, hạnh nhân 6g. Các vị tán mịn, mỗi lần uống 8g, hoặc sắc uống. Tác dụng dưỡng âm bổ phế, chỉ khái huyết.
Chữa viêm loét dạ dày - tá tràng: Gạo nếp, mai mực, cam thảo, mẫu lệ nung, hoàng bá, kê nội kim mỗi thứ 50g, làm khô, xay bột mịn, ngày uống 20 - 30g với nước ấm. Nước sắc đặc gạo nếp rang uống thay nước mỗi ngày để chống mất nước, háo khát trong trường hợp tiêu chảy.
Chữa xót ruột: Gạo nếp, đậu xanh liều vừa đủ nấu cháo ăn.
Chữa phụ nữ sau sinh thiếu sữa: Gạo nếp, móng giò heo 1 cái gia vị mắm muối nấu cháo ăn.
Cơm nếp nóng để chườm làm thông tắc tia sữa cho sản phụ, cơm nếp nguội giã nhuyễn trộn với bột thuốc để bó gãy xương và bong gân, ủ men chế cơm rượu hoặc cất rượu nếp cái hoa vàng để ngâm rượu trứng và rượu thuốc để bồi bổ sức khỏe.
Chữa nôn mửa không ngừng: Gạo nếp 20g, gừng tươi 3 lát. Gạo nếp sao vàng, sắc cùng với gừng lấy nước uống.
Chữa liệt dương: Cám nếp 12g, hoài sơn 12g, đinh lăng 12g, ý dĩ 12g, hoàng tinh 12g, hà thủ ô 12g, kỷ tử 12g, long nhãn 12g, trâu cổ 8g, cao ban long 8g, sa nhân 6g. Để riêng cao ban long, các vị khác sắc lấy nước, hòa tan cao và uống trong ngày.
Món ăn trị bệnh từ gạo nếp
Rượu nếp (cơm rượu): Cách làm đơn giản, nấu cơm nếp lứt (gạo xay) rồi trộn với men cơm rượu, ủ vài ba hôm, qua quá trình lên men ta được cơm rượu. Mỗi ngày ăn một bát con cơm rượu có tác dụng kiện tỳ, bổ khí khai vị.
Nước gạo nếp rang: Gạo nếp 1kg ngâm nước một ngày đêm, thay nước vài ba lần, đem vo rửa sạch, phơi nắng hoặc sấy khô, sao vàng và tán bột để sẵn. Khi dùng hòa với nước sôi, chút đường uống. Dùng cho các trường hợp nôn ói như trào ngược dạ dày - thực quản, hẹp môn vị, rối loạn do thai nghén.
Hồ bột gạo nếp, củ mài: Gạo nếp 500g, củ mài 500g. Gạo nếp ngâm nước khoảng 12 tiếng, vo rửa sạch, để khô, sao tán bột. Củ mài sao qua, tán bột. Mỗi lần lấy mỗi thứ 1 thìa, thêm đường và bột hồ tiêu dùng nước sôi khuấy đều. Ăn bữa sáng khi đói. Dùng cho người cao tuổi, trẻ em ăn kém suy nhược hoặc do bệnh tiêu chảy lâu ngày ăn kém.
Chè gạo nếp, đậu đỏ: gạo nếp 50g, đậu đỏ 50g, cám gạo 50g, đường vừa ăn, nấu thành chè ăn, chữa bệnh tê phù.
Lưu ý:Gạo nếp chứa nhiều amilopectin tạo nên độ dẻo đặc trưng của cơm nếp nhưng lại rất khó tiêu, cho nên trẻ nhỏ, người già, người mới ốm dậy, người tỳ vị quá hư nhược không nên ăn nhiều nếp.
Người bị bệnh đàm kết, phong, nhiệt, nên hạn chế dùng. Gạo nếp cũng như các loại gạo ngũ cốc khác người bệnh tiểu đường không nên ăn một lúc quá nhiều.