Nhiều điểm mới của Luật Công chứng

01/01/2025 - 06:29

 - Luật Công chứng năm 2024 gồm 8 chương, 76 điều, được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2024, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 với nhiều điểm mới.

Cụ thể, luật quy định về hành nghề công chứng, điều kiện bổ nhiệm công chứng viên, đào tạo nghề công chứng và thời gian tập sự hành nghề... Luật quy định, thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư 5 năm kinh nghiệm vẫn phải tham gia đào tạo nghề công chứng; thời gian tập sự hành nghề là 12 tháng; công chứng viên hành nghề không quá 70 tuổi; công chứng viên được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; không được hợp danh vào văn phòng khác/lập văn phòng mới trong 2 năm kể từ khi rút hợp danh; phải triển khai công chứng điện tử; không còn là công chứng viên vẫn phải bồi thường thiệt hại.

Về thời gian tập sự hành nghề công chứng, Luật Công chứng quy định là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng và 6 tháng đối với người có giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng. Thời gian tập sự hành nghề công chứng là 12 tháng tính từ ngày quyết định đăng ký tập sự có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, người tập sự phải bảo đảm thời gian tập sự theo ngày, giờ làm việc của tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự, được hướng dẫn các kỹ năng hành nghề và thực hiện các công việc liên quan đến công chứng, chứng thực do công chứng viên hướng dẫn tập sự phân công và chịu trách nhiệm trước công chứng viên hướng dẫn tập sự về những công việc đó.

Về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên, Điều 10, Luật Công chứng năm 2024 quy định, người có đủ 6 tiêu chuẩn sau đây mới được xem xét bổ nhiệm. Cụ thể, công dân Việt Nam không quá 70 tuổi; thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng; có bằng cử nhân luật hay thạc sĩ luật hoặc tiến sĩ luật; có thời gian công tác pháp luật từ đủ 3 năm trở lên tại cơ quan, tổ chức sau khi có bằng cử nhân luật hay thạc sĩ luật hoặc tiến sĩ luật; tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng; đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. So Luật Công chứng năm 2014, Luật Công chứng năm 2024 yêu cầu công chứng viên phải là công dân Việt Nam không quá 70 tuổi. Bên cạnh đó, về thời gian công tác pháp luật quy định giảm xuống chỉ còn từ đủ 3 năm trở lên (luật cũ quy định 5 năm) tại cơ quan, tổ chức sau khi có bằng cử nhân luật hay thạc sĩ luật hoặc tiến sĩ luật.

Khoản 5, Điều 76 quy định, công chứng viên quá 70 tuổi đang hành nghề công chứng tại ngày 1/7/2025 thì được tiếp tục hành nghề công chứng trong thời hạn 2 năm kể từ ngày 1/7/2025. Công chứng viên từ đủ 68 đến đủ 70 tuổi tại ngày 1/7/2025 được hành nghề công chứng đến khi đủ 72 tuổi. Khi hết thời hạn nêu trên, công chứng viên đương nhiên miễn nhiệm.

 Về đào tạo nghề công chứng có nhiều điểm mới. Cụ thể, Luật Công chứng năm 2024 bỏ quy định về miễn đào tạo nghề công chứng cho một số đối tượng đặc biệt, như: Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư đã có thời gian làm việc/hành nghề từ 5 năm trở lên (Luật Công chứng năm 2014 quy định học lớp bồi dưỡng nghề công chứng 3 tháng, được miễn đào tạo nghề công chứng). Thay vào đó, Điều 11, Luật Công chứng năm 2024 quy định, những đối tượng đặc biệt này phải học khóa đào tạo nghề công chứng là 6 tháng.

Điều 40, Luật Công chứng năm 2024 quy định, tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi của công chứng viên, nhân viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã chuyển đổi, hợp nhất, sáp nhập thì tổ chức hành nghề công chứng kế thừa quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã giải thể, chấm dứt hoạt động thì công chứng viên, nhân viên trực tiếp gây thiệt hại phải tự mình bồi thường thiệt hại, kể cả trường hợp người đó không còn là công chứng viên hoặc nhân viên của một tổ chức hành nghề công chứng.

Công chứng viên, nhân viên trực tiếp gây thiệt hại phải hoàn trả cho tổ chức hành nghề công chứng khoản tiền mà tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người đó không còn là công chứng viên hoặc nhân viên của một tổ chức hành nghề công chứng. Trường hợp công chứng viên, nhân viên trực tiếp gây thiệt hại không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.

N.R (Tổng hợp)