Thí điểm để nhân rộng
Nhằm có cơ sở mở rộng thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL (Đề án 1 triệu héc-ta lúa), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) chọn một số địa phương triển khai 5 mô hình thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp.
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) Lê Thanh Tùng cho biết, trong quá trình chuẩn bị cho đề án, Cục Trồng trọt đã khảo sát 10.000 hộ nông dân và trên 500 HTX ở ĐBSCL, kết hợp với điều kiện sinh thái tự nhiên một số nơi trong vùng. Tiêu chí đặt ra là các mô hình phải nằm ở các vùng sinh thái khác nhau, nhằm đánh giá toàn diện những tác động có liên quan đến quy trình và cách thức canh tác khác nhau.
Canh tác lúa giảm phát thải mang lại lợi ích trực tiếp cho nông dân
Đối với mô hình thí điểm, việc chọn TP. Cần Thơ vì là vùng phù sa ngọt, Kiên Giang vì là vùng Tây sông Hậu với điều kiện vừa phèn, vừa mặn, Đồng Tháp là vùng ngập lũ, Sóc Trăng và Trà Vinh là vùng ven biển. Các tỉnh lân cận có điều kiện tương tự có thể rút kinh nghiệm từ những vùng thí điểm để nhân rộng. Ví dụ như An Giang vừa là vùng ngập lũ, vừa có phèn; Cà Mau, Bạc Liêu, Tiền Giang, Long An có ngọt, có mặn; Hậu Giang, Vĩnh Long là vùng phù sa ngọt...
Trong đó, mô hình thí điểm đầu tiên được triển khai diện tích 50ha tại HTX Tiến Thuận (xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ) vừa thu hoạch, cho kết quả rất tích cực. TS Nguyễn Văn Hùng, chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI) cho biết, vùng sản xuất thí điểm ở huyện Vĩnh Thạnh là đất phèn ở mức độ vừa phải. Với quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp, 50ha đều áp dụng sạ hàng, chỉ sử dụng 70kg lúa giống/ha (giảm 60kg giống/ha so với phương pháp sạ lan), tương đương tiết kiệm được 1,2 triệu đồng/ha; lượng phân đạm giảm được 30kg/ha, tương đương 700.000 đồng/ha. “Riêng chi phí đầu vào của giống và phân, nông dân đã giảm được 1,9 triệu đồng/ha” - TS Hùng đánh giá.
Hiệu quả rõ rệt
Tiết kiệm chi phí chỉ là một phần hiệu quả của mô hình thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại HTX Tiến Thuận. Theo TS Nguyễn Văn Hùng, khi áp dụng phương pháp sạ hàng, nông dân chỉ phun thuốc 6 - 7 lần phun/vụ, trong khi sạ lan là 9 lần phun/vụ. Về năng suất, ruộng thí điểm đạt từ 6,13 - 6,51 tấn/ha, cao hơn ruộng đối chứng (5,89 tấn/ha). Nhờ giảm chi phí đầu tư, năng suất tăng nên nông dân tham gia mô hình tăng lợi nhuận từ 1,3 - 6,2 triệu đồng/ha.
Qua đo lường cho thấy, khi nông dân sản xuất theo phương pháp ngập liên tục kết hợp đốt rơm, lượng phát thải trên 1ha khoảng 5 tấn CO2-e (lượng phát thải quy ra khí carbon), còn sản xuất ngập liên tục kết hợp vùi rơm, lượng phát thải là 15 tấn CO2-e/ha. Đánh giá trên quy trình canh tác theo Đề án 1 triệu héc-ta lúa, việc chuyển rơm ra khỏi đồng ruộng giúp giảm được 13 tấn CO2-e/ha so với áp dụng tưới ngập liên tục kết hợp vùi rơm rạ, giảm 3 tấn CO2-e/ha so với áp dụng tưới ngập liên tục kết hợp đốt rơm và giảm 6 tấn CO2-e/ha so với áp dụng quy trình tưới ngập khô xen kẽ, nhưng vùi rơm.
Dùng máy cấy lúa giúp giảm chi phí và giảm lượng phát thải
Như vậy, mô hình thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp đạt các tiêu chí về giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, tốt hơn cho môi trường và quan trọng là lượng phát thải giảm rất lớn.
Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn Trần Minh Hải cho rằng, từ hiệu quả của mô hình thí điểm ở HTX Tiến Thuận, các địa phương có thể xây dựng thêm mô hình HTX điểm để nông dân trực tiếp chứng kiến, tin tưởng làm theo. Qua đó, HĐND các địa phương nghiên cứu ban hành nghị quyết theo định hướng đặc thù để khuyến khích, hỗ trợ HTX liên kết với DN tiêu thụ, DN cung ứng vật tư nông nghiệp, máy móc, nông cụ. HTX đủ năng lực có thể làm dịch vụ cho DN, như: Cho mượn đất công để làm nhà kho, nhà máy sấy, sơ chế, chế biến, kho chứa vật tư...
Lợi ích lâu dài
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt Lê Thanh Tùng cho biết, Cục Trồng trọt đã ban hành quy trình canh tác lúa giảm phát thải, giảm chi phí và thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng quy định của Đề án 1 triệu héc-ta lúa. Tuy nhiên, quy trình này cần đưa vào thực tiễn sản xuất ở các vùng sinh thái khác nhau để đánh giá hiệu quả. Đối với các mô hình thí điểm, sẽ triển khai trong 3 vụ liên tiếp vì mỗi vụ sản xuất có điều kiện tự nhiên khác nhau, có thể nhiều mưa, xâm nhập mặn hoặc số giờ nắng ít đi... Từ đó, có cơ sở điều chỉnh quy trình canh tác phù hợp, rút ra các yếu tố then chốt, mang tính đặc thù cho cả vùng để phổ biến, nhân rộng.
Qua áp dụng quy trình mới cho thấy, do ruộng gieo sạ với mật độ thấp (70kg giống/ha) nên tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm dịch hại, giảm được số lần phun thuốc và chi phí phòng trừ. Nhờ sạ thưa nên số lượng hạt trên bông nhiều hơn so với nơi sạ dày (có nhiều bông nhưng số lượng hạt chắc ít hơn), giúp tăng năng suất. Điều quan trọng nhất của mô hình thí điểm là có lượng phát thải quy ra khí carbon giảm từ 2 - 6 tấn/ha so với cách canh tác truyền thống bên ngoài. Lúa được DN mua cao hơn bên ngoài 200 đồng/kg vì tỷ lệ thu hồi gạo cao hơn, sản phẩm an toàn.
Ông Lê Thanh Tùng thông tin, Bộ NN&PTNT đã công bố kế hoạch MRV (công cụ đo, báo cáo phát thải khí nhà kính) và đã hiệp thương với các bộ, ngành để chuẩn bị trình Chính phủ về thể chế cũng như các văn bản quy phạm pháp luật về tín carbon trong sản xuất lúa gạo. Từ đó, có cơ chế phân phối lại số tiền thu được sau khi bán tín chỉ carbon cho các bên tham gia một cách phù hợp, tuân thủ luật pháp Việt Nam và quốc tế, hướng đến lâu dài, bền vững.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, tiềm năng bán tín chỉ carbon, quy trình canh tác theo Đề án 1 triệu héc-ta lúa còn thúc đẩy phát triển nông nghiệp tuần hoàn. Sau khi vận chuyển rơm ra khỏi đồng ruộng, nông dân, HTX có thể sử dụng rơm rạ để trồng nấm, sau đó sử dụng rơm mục bón cho cây trồng hoặc trực tiếp ủ rơm, chế biến thành phân bón hữu cơ, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
|
HOÀNG XUÂN