Bài toán cơ sở vật chất, thể thao học đường cho mục tiêu Asiad, Olympic

24/12/2025 - 15:22

Cựu Tổng thư ký (TTK) Liên đoàn Quần vợt Việt Nam, hiện là lãnh đạo Liên đoàn Solf Tennis Đông Nam Á, ông Đoàn Thanh Tùng, hiến kế về những bước đi có thể giúp thể thao Việt Nam vượt tầm SEA Games.

TTVN giành HCV như thế nào ở các môn Olympic tại SEA Games 33?

Theo thông tin từ phía đoàn TTVN dự SEA Games 33, trong tổng số 87 HCV mà chúng ta có được trên đất Thái Lan, có trên 70% HCV đến từ các môn nằm trong chương trình thi đấu tại Olympic.

Cụ thể, chúng ta có 12 HCV điền kinh, xếp nhì ở môn này, chỉ sau chủ nhà Thái Lan (13 HCV). TTVN giành 6 HCV bơi (xếp thứ nhì, chỉ sau Singapore), 2 HCV bóng đá (xếp thứ nhất), 5 HCV bắn súng, 4 HCV rowing (nhất đại hội), 7 HCV vật, 6 HCV karate (đứng nhất), 4 HCV taekwondo, 3 HCV thể dục dụng cụ.

Đặc biệt, trong môn điền kinh, Bùi Thị Kim Anh (19 tuổi) giành HCV ở nội dung nhảy cao với thành tích 1m86, tương đương thành tích HCV Asiad. Cũng trong môn điền kinh, Lê Thị Cẩm Tú giành huy chương bạc 200m nữ khi cô mới 20 tuổi, tức là trong vòng 1-2 năm tới, thành tích của Cẩm Tú có thể cải thiện đáng kể.

Đoàn Thể thao Việt Nam (TTVN) hoàn thành nhiệm vụ tại SEA Games 33. Chúng ta giành được 87 huy chương vàng (HCV). Trong đó, số HCV ở nhóm các nội dung Olympic chiếm hơn 70% số lượng HCV của toàn đoàn.

Mục tiêu của TTVN chắc chắn không dừng lại tại đây. Chúng ta sẽ hướng đến các kỳ đại hội thể thao lớn hơn, gồm Asiad và Olympic. Để có thể cạnh tranh huy chương ở những đấu trường ấy, chúng ta cần phải có những sự thay đổi về định hướng, về cách đầu tư, về hệ thống thi đấu…

Tất cả những vấn đề đấy được cựu TTK Liên đoàn Quần vợt Việt Nam (VTF), kiêm quan chức đương nhiệm của thể thao Đông Nam Á, ông Đoàn Thanh Tùng, trao đổi với phóng viên Dân trí vào sáng qua (23/12).

Cựu TTK VTF, thành viên Liên đoàn Solf Tennis Đông Nam Á, ông Đoàn Thanh Tùng (Ảnh: NVCC)

Bài toán cơ sở vật chất và thể thao học đường

Được biết, tại SEA Games 33, ông trực tiếp tham gia điều hành một môn thi đấu của đại hội là Solf Tennis (quần vợt mềm), ông đánh giá thế nào về cơ sở vật chất phục vụ thể thao mà Thái Lan hiện có, so với cơ sở vật chất của TTVN?

- Đầu tiên, phải thẳng thắn thừa nhận cơ sở vật chất của thể thao Thái Lan hiện rất tốt. Đây là hệ thống các sân bãi mà họ đã tích lũy được qua nhiều thập niên, suốt giai đoạn họ tổ chức nhiều kỳ Asiad (4 lần, vào các năm 1966, 1970, 1978 và 1998) và SEA Games trước đây (6 lần, 1959, 1967, 1975, 1985, 1995 và 2007, tính đến trước năm 2025).

Cơ sở vật chất thể thao của Thái Lan không chỉ đồ sộ ở Bangkok, không chỉ đồ sộ ở các khu liên hợp thể thao cấp quốc gia, mà ngay đến các trường đại học của Thái Lan cũng sở hữu hệ thống sân bãi phục vụ thể thao thật sự gây choáng ngợp.

Tôi trực tiếp làm việc tại tỉnh Pathum Thani (cách trung tâm Bangkok hơn 40km), trong khuôn viên khu liên hợp thể thao thuộc Đại học Thammasat. Chỉ một trường đại học thôi mà họ đã sở hữu khu liên hợp, với hơn 10 công trình phục vụ thể thao quy mô lớn, gồm sân vận động bóng đá, sân điền kinh, hồ bơi, nhà thi đấu, sân quần vợt…

Hầu như mỗi khoa riêng biệt thuộc trường đại học này đều có công trình riêng để phục vụ môn thể thao tương ứng của khoa. Cơ sở vật chất tốt chính là điều kiện cần đầu tiên để phát triển thể thao. Không có cơ sở vật chất hoàn chỉnh, các vận động viên (VĐV) không có cơ hội để được tập luyện tốt, theo đúng tiêu chuẩn.

Cơ sở vật chất tốt là tiền đề để phát triển thể thao thành tích cao (Ảnh: Khoa Nguyễn).

Ngoài chuyện cơ sở vật chất hoàn chỉnh, đủ điều kiện tổ chức cả SEA Games, việc các trường đại học tại Thái Lan phát triển sân bãi quy mô lớn cũng phản ánh họ rất xem trọng thể thao học đường?

- Hoàn toàn chính xác. Thể thao học đường chính là con đường tốt nhất để phát triển thể thao. Tất cả các cường quốc thể thao hàng đầu thế giới hiện nay như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc đều chú trọng đến việc phát triển thể thao học đường.

Tôi từng tìm hiểu, đại hội thể thao các trường đại học tại Mỹ và ở Nhật Bản có quy mô và được tổ chức chuyên nghiệp còn hơn cả các đại hội thể thao khu vực, ngang ngửa tầm châu lục. Điều đó giúp họ tạo ra các thế hệ VĐV tài năng nối tiếp nhau.

Không có ở đâu có thể thu hút nguồn lực VĐV đông đảo như thể thao học đường. Cũng không có ở đâu có các VĐV có môi trường phát triển tốt như thể thao học đường: Nếu họ có tài năng đặc biệt, họ sẽ phát triển thẳng lên chuyên nghiệp. Nếu họ không thể theo đuổi thể thao chuyên nghiệp, họ sẽ quay lại với việc học và nghiên cứu khoa học. Tương lai của VĐV rất an toàn.

Ngay ở khu vực Đông Nam Á, các VĐV Thái Lan (Panipak Wongpattanakit trong môn taekwondo) và Philippines (Carlos Yulo trong môn thể dục dụng cụ) giành HCV Olympic Paris 2024 đều là những sinh viên, xuất thân từ thể thao học đường. Điều đó có nghĩa là các quốc gia Đông Nam Á cũng đã dịch chuyển theo xu thế chung, phát triển thể thao học đường.

Bài toán về khâu định hướng và xã hội hóa

Có nghĩa là việc thay đổi thành tích của VĐV Việt Nam, từ chỗ nằm trong nhóm đầu của SEA Games cho đến cạnh tranh tại Asiad và Olympic, tiếp tục liên quan đến khâu định hướng?

- Chúng ta đã có sự thay đổi trong những năm gần đây, từ đầu tư dàn trải sang đầu tư trọng điểm, tập trung vào các môn và các nội dung Olympic. Chúng ta cần tiếp tục thay đổi trong những năm tới, trong đó có việc phát triển cơ sở vật chất dành cho thể thao và thể thao học đường.

Ngoài ra, định hướng tiếp theo là đẩy mạnh vai trò của các liên đoàn, hiệp hội trong những môn thể thao riêng lẻ. Mỗi môn thể thao cần có một liên đoàn hoặc hiệp hội riêng.

Bóng đá Việt Nam thành công lớn nhờ định hướng tốt, liên đoàn cấp quốc gia làm việc hiệu quả, hệ thống thi đấu chuyên nghiệp, khâu xã hội hóa tốt (Ảnh: Khoa Nguyễn).

Chính các liên đoàn, hiệp hội là nơi xây dựng hệ thống thi đấu các giải quốc gia, thực hiện công tác xã hội hóa thể thao, chứ ngành thể thao không thể nào bao trọn gói tất cả các môn được. Thế nên, hoạt động của các liên đoàn và hiệp hội ở từng môn rất quan trọng, chứ các bộ môn không thể trông chờ hoàn toàn vào ngành TDTT được.

Ông có thể nói rõ hơn về vai trò của hệ thống thi đấu trong nước đối với sự phát triển của từng môn thể thao?

- Hệ thống các giải trong nước càng quy củ, có lớp lang, có phân hạng cao thấp, các VĐV càng chuyên nghiệp. Đó là về chiều sâu. Còn về chiều rộng, các sân chơi phong trào càng nở rộ, số người tập luyện càng tăng lên, nguồn tuyển chọn nhân tài của chúng ta càng lớn.

Tôi lấy ví dụ ở Việt Nam, bóng đá sở hữu hệ thống giải quốc nội quy củ nhất, chuyên nghiệp nhất, đồng thời hệ thống sân chơi phong trào trong bóng đá lan tỏa rất rộng. Từ đó, bóng đá Việt Nam những năm gần đây phát triển rất mạnh. Bóng đá Việt Nam vô địch SEA Games, có rất nhiều đội tuyển lọt vào các giải châu Á, tạo hiệu ứng xã hội rất tích cực.

Ngược lại, hệ thống các giải quần vợt trong nước hiện không mạnh, phong trào tập luyện quần vợt ngày càng bị co hẹp, khiến cho quần vợt Việt Nam càng ngày càng suy yếu. Riêng ở SEA Games 33, quần vợt Việt Nam không giành huy chương nào. Đây là điểm mà chúng ta hiện bị bỏ xa bởi các VĐV quần vợt của Thái Lan, Indonesia, đồng thời ở rất xa so với trình độ của Asiad hay Olympic.

Bài học từ quốc tế

Còn về khâu xã hội hóa thể thao thì sao?

- Như đã nói, ngành thể thao, Cục TDTT Việt Nam không thể nào bao trọn gói cho mọi môn thi đấu và bao trọn gói cho VĐV được. Con đường phát triển bền vững là các đơn môn phải xã hội hóa thật tốt, tự chủ nguồn thu chi cho chính mình.

Đầu tư có trọng điểm để TTVN tiến thẳng đến Asiad và Olympic (Ảnh: Mạnh Quân).

Tôi có tìm hiểu một tài liệu nước ngoài, họ thống kê rằng trong khoảng 9 tháng đầu năm 2025, thị trường Pickleball tại Việt Nam bùng nổ mạnh, người dân chi hơn 500 tỷ đồng để trang bị và thi đấu môn này.

Chưa rõ con số ấy chính xác tới đâu, nhưng việc người chơi TTVN đổ nhiều tiền vào Pickleball là việc có thực.

Đấy chính là xã hội hóa và là tín hiệu tích cực rất đáng để các môn khác học hỏi. Công tác xã hội hóa tốt sẽ giúp các môn thể thao, các liên đoàn, hiệp hội giải quyết ngay lập tức khâu tài chính ở môn mà mình quản lý, từ đó tái đầu tư cho các VĐV, phát triển nguồn nhân lực tốt hơn.

Có nghĩa là chúng ta đã có con đường để hướng đến sự phát triển tốt hơn, vượt ra khỏi trình độ SEA Games, tấn công vào các đại hội tầm cỡ lớn như Asiad và Olympic. Điều quan trọng còn lại là chúng ta thực hiện con đường đó?

- Tôi muốn nêu thêm một ví dụ khác, đó là thể thao Trung Quốc. Trước đây, họ xây dựng đội ngũ VĐV theo kiểu “nuôi gà nòi”, tập trung hoàn toàn vào các trung tâm của nhà nước. Nhiều năm trở lại đây, thể thao Trung Quốc chú trọng phát triển mạnh thể thao học đường. Đại hội thể thao học sinh, sinh viên Trung Quốc ở một số môn hiện có quy mô cực lớn.

Về công tác xã hội hóa, thể thao Trung Quốc cũng giao hẳn một số môn cho các liên đoàn, hiệp hội tự vạch chiến lược, tự đầu tư phát triển nguồn VĐV. Nhà nước đầu tư cho sân bãi rồi giao sân bãi đó cho các liên đoàn, hiệp hội quản lý và khai thác các sân bãi, tổ chức các giải đấu.

Các giải quần vợt (Thượng Hải Masters), điền kinh (trong hệ thống Grand Prix) của Trung Quốc hấp dẫn hàng đầu thế giới, để từ đó nước này đã có HCV quần vợt, HCV điền kinh Olympic, cho dù trước đó họ không hề có thế mạnh trong những môn nói trên.

Gần hơn nữa, Thái Lan, Indonesia, Philippines cũng đi theo con đường tương tự và cũng đã có HCV Olympic ở các môn taekwondo, cử tạ, thể dục dụng cụ. Họ có hệ thống thể thao học đường tốt, có cơ sở vật chất tốt, có định hướng đúng, trước khi họ tập trung khai thác và thành công. Đấy chính là con đường để chúng ta tham khảo, tìm cách vượt trình độ SEA Games, tiếp cận HCV Asiad và Olympic.

Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

Theo Dân Trí