
Uống hoặc tiêm vaccine có thành phần bại liệt là biện pháp phòng bệnh hiệu quả. Ảnh: TTXVN
Nguy cơ “sát sườn”
Theo Bộ Y tế, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã ra cảnh báo nghiêm trọng về tình hình bệnh bại liệt trên toàn cầu. Virus bại liệt hoang dại WPV1 vẫn tiếp tục lưu hành tại một số nước, có nguy cơ lan truyền sang nhiều quốc gia.
Đặc biệt, tình hình trở nên phức tạp hơn khi mới đây, tại Lào đã ghi nhận 1 ca nhiễm virus bại liệt có nguồn gốc biến đổi từ chính vaccine tuýp 1 phòng bệnh bại liệt (VDPV1) với đặc điểm đột biến gen dài, cho thấy virus đã lưu hành âm thầm trong cộng đồng suốt khoảng 3 năm mà không được phát hiện.
Các tài liệu cho thấy, việc sử dụng một số loại vaccine bại liệt đường uống có chứa virus còn sống nhưng đã làm cho bị suy yếu. Sau khi trẻ được chủng ngừa, một số virus sót trong phân của trẻ đã được tiêm, theo đường tiêu hóa ra ngoài. Virus này sau đó lây lan trong các cộng đồng chưa được tiêm chủng và biến đổi để thành một chủng nguy hiểm hơn.
Theo đó, virus Polio là tác nhân gây bệnh bại liệt, lây truyền chủ yếu qua đường tiêu hóa theo con đường phân - miệng. Virus có thể sống sót trong môi trường nhiều ngày, đặc biệt trong nước và thực phẩm bị ô nhiễm và lây lan sang người.
Để ngăn ngừa dịch bệnh, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo Việt Nam cần triển khai khẩn cấp chiến dịch tiêm chủng bổ sung vaccine bOPV tại các tỉnh có nguy cơ cao và tăng cường tiêm bù, tiêm vét vaccine phòng bệnh tại các tỉnh còn lại.
Việt Nam cần xây dựng kế hoạch chuẩn bị và ứng phó dịch bại liệt toàn diện bao gồm cả tiêm chủng, giám sát, xét nghiệm…
Về giám sát ca bệnh, Việt Nam cần giám sát một cách chủ động hàng tuần, chủ động điều tra ca bệnh, lấy mẫu kịp thời tại tất cả các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, cần nâng ngưỡng giám sát thụ động, tổ chức tập huấn lại và đản bảo việc lấy mẫu bệnh phẩm xét nghiệm đầy đủ, kịp thời; khôi phục các điểm giám sát môi trường tại miền Bắc và mở rộng tới các khu vực nguy cơ cao.
WHO cũng khuyến cáo, Việt Nam cần tăng cường phối hợp xuyên biên giới với Lào và các đối tác toàn cầu trong ứng phó với dịch bại liệt…
Dịch bệnh nguy hiểm nhưng đã có vaccine
ThS.BS Đinh Thị Vân Anh, Phó Trưởng khoa Dự phòng và Kiểm soát truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết: Bại liệt (poliomyelitis) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus bại liệt (poliovirus) thuộc nhóm virus đường ruột ở người gây ra, lây truyền chủ yếu theo đường phân - miệng. Bệnh có khả năng lan rộng trong cộng đồng và gây thành dịch nếu miễn dịch cộng đồng suy giảm. Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000; tuy nhiên nguy cơ xâm nhập trở lại vẫn hiện hữu do Poliovirus còn lưu hành tại một số quốc gia.
Cụ thể, virus bại liệt thuộc họ Picornaviridae, có ba tuyp huyết thanh (WPV1, WPV2 và WPV3). Đường lây của loại virus này chủ yếu qua con đường phân – miệng. Virus được thải ra nhiều qua phân của người nhiễm (đặc biệt ở trẻ nhỏ), dễ phát tán ở nơi vệ sinh môi trường, nước sạch và xử lý phân kém. Virus này cũng có thể lây qua giọt bắn, qua đường hô hấp ở giai đoạn sớm có thể xảy ra nhưng nguyên nhân này ít quan trọng hơn.
Người nhiễm virus có thể ủ bệnh trong khoảng thời gian từ 3 – 6 ngày; giai đoạn từ 7 – 21 ngày là có thể khởi phát tình trạng liệt.
Theo Ths.BS Đinh Thị Vân Anh, bệnh nhân nhiễm virus bại liệt có biểu hiện lâm sàng đa dạng, từ không triệu chứng đến liệt mềm cấp. Biểu hiện và mức độ nặng của bệnh phụ thuộc vào tuyp virus, tình trạng miễn dịch, độ tuổi và yếu tố vật chủ khác.
Theo đó, người mắc ở thể nhẹ thường có biểu hiện: Sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau họng, buồn nôn hoặc nôn, rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy hoặc táo bón); bệnh nhân nhẹ thường tự hồi phục sau vài ngày.
Ca bệnh ở thể không liệt (viêm màng não vô khuẩn) thường có biểu hiện: Đau đầu, cứng gáy, tăng cảm giác đau, có thể kèm thay đổi nhẹ về ý thức, hành vi; không có yếu cơ khu trú.
Ca bệnh ở thể liệt có thể khởi phát sốt, đau đầu, cứng cổ hoặc lưng, tăng nhạy cảm khi chạm. Sau đó xuất hiện liệt mềm cấp không đối xứng, thường ở chi dưới, bệnh nhân giảm hoặc mất phản xạ gân xương... Quá trình hồi phục của người bệnh có thể kéo dài trong 2 – 6 tháng; một số trường hợp để lại di chứng yếu hoặc liệt vĩnh viễn. Tổn thương có thể lan tới hành tủy, có thể gây suy hô hấp, đe dọa tính mạng.
Theo đó, bệnh bại liệt nguy hiểm nhưng đã có vaccine và có thể dự phòng bằng vaccine.
BS. Đinh Thị Vân Anh khuyến cáo, cộng đồng cần duy trì và củng cố tỷ lệ bao phủ vaccine đúng lịch, đặc biệt ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi.
Cụ thể, hiện nay, theo chương trình tiêm chủng mở rộng, có vaccine bại liệt dạng uống OPV và dạng tiêm IPV an toàn, tạo đáp ứng miễn dịch hiệu quả, góp phần bảo vệ cá nhân và cộng đồng khi đạt độ bao phủ cao.
Ở dạng uống với liều uống lần 1 khi trẻ đủ 2 tháng tuổi; liều uống lần 2 khi trẻ được ít nhất 1 tháng sau lần 1; uống lần 3 ít nhất 1 tháng sau lần 2.
Ở dạng tiêm, trẻ cần được tiêm lần 1 khi đủ 5 tháng tuổi; tiêm lần 2 khi trẻ đủ 9 tháng tuổi.
Ngoài ra vaccine bại liệt còn có trong một số loại vaccine phối hợp như: Vaccine 4 trong 1 (phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván và bại liệt); vaccine 5 trong 1 (phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt và viêm phổi/viêm màng não do vi khuẩn Haemophilus influenzae tuýp b (Hib); vaccine 6 trong 1 (phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm gan B và viêm phổi/viêm màng não do vi khuẩn Haemophilus influenzae týp b (Hib).
Bác sĩ cũng khuyến cáo, bên cạnh việc tiêm chủng, cần thực hành giám sát hội chứng liệt mềm cấp và xét nghiệm phát hiện virus bại liệt. Người dân cần đảm bảo nguồn nước sạch, vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân như rửa tay với xà phòng, hoặc dung dịch sát khuẩn, để giảm lây truyền bệnh qua đường phân – miệng. Đồng thời, cần đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe phòng bệnh qua các phương tiện thông tin đại chúng để người dân biết và phòng tránh.
Theo TTXVN