Huyền tích Thủy Đài Sơn

26/01/2024 - 06:16

 - Nằm lọt thỏm tại cánh đồng Ba Chúc (huyện Tri Tôn), Thủy Đài Sơn (núi Nước) là ngọn núi thấp nhất trong dãy Thất Sơn huyền bí. Thời khẩn hoang, nơi đây từng in dấu của bậc tiền nhân, với nhiều câu chuyện kỳ bí được lưu truyền trong dân gian.

Khuôn viên Linh Bửu Tự

Ngôi chùa độc đáo

Sáng sớm, núi Nước chìm đắm trong màn sương mờ ảo, trông như bức tranh sơn cước tuyệt đẹp. Chiều cao ngọn núi “khiêm tốn” nên du khách chinh phục dễ dàng. Khác với những ngọn núi trong dãy Thất Sơn có độ cao hơn 500m, mỗi lần chinh phục toát mồ hôi, ngọn Thủy Đài Sơn chỉ cao hơn 50m, chu vi khoảng 1.000m nên vãn cảnh rất thú vị.

Khi bước qua những tảng đá bàn, rồi quan sát xung quanh, ngọn núi Nước cũng chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên, dưới chân núi là Linh Bửu Tự do Đức Bổn sư Ngô Lợi dựng lên năm 1884, ẩn chức nhiều câu chuyện kỳ bí. Ông Ngô Văn Chiến (65 tuổi, tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) cho hay, trước đây, ngôi chùa được cất bằng tre, lá.

Qua 6 lần trùng tu, chùa Linh Bửu được xây dựng lộng lẫy, cổ kính, với kiến trúc “thượng lầu, hạ hiên”. Nóc chùa có hình rồng thăng, hình quả bầu tượng trưng cho vũ trụ và thiên - địa - nhân, biểu tượng của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Bên trong thờ Đức Quan Âm, Cửu Thiên Huyền Tử, Hộ Pháp Lâm Thiên và thập bát vũ khí, tam bảo, bên trên được trạm trổ rồng, phụng uốn lượn.

Từ trên nền chùa nhìn xuống sẽ bắt gặp cây cột cờ cao vút được làm bằng gỗ sao. Theo ông Chiến, cột cờ này khoảng 20 năm thay một lần. Để có nguồn gỗ sao thay thế, nhà chùa đã cho trồng những cây sao gần đó, đến khi nào gỗ cột cờ mục thì bà con tín đồ hạ cây sao mới xuống và đẽo thành cột cờ, rồi dựng lên.

Cột cờ trước chùa tượng trưng cho sự uy nghi, trường tồn theo thời gian của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Chùa Linh Bửu là một trong 14 ngôi chùa được Đức Bổn sư Ngô Lợi dựng lên thời “khẩn hoang”, mang đặc trưng riêng của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại vùng “thánh địa” Ba Chúc. “Sau Tết là thời điểm du khách đến chùa ngày càng đông. Cổng chùa luôn rộng mở chào đón khách hành hương. Bà con nào có nhu cầu ở qua đêm, chùa bố trí phía sau chánh điện” - ông Chiến cho hay.

Những câu chuyện ly kỳ

Thuở trước, nhà yêu nước Ngô Tự Lợi (Đức Bổn sư Ngô Lợi) dẫn tín đồ băng đồng vào núi Tượng (Ba Chúc) khẩn hoang lập ấp, phát triển đạo giáo và phong trào chống Pháp. Một ngày nọ, Đức Bổn sư băng rừng đến Thủy Đài Sơn, bỗng dưng cản các đệ tử lại không cho đi tiếp. Ông cho rằng, nơi đây có làn khí độc và hung thần đang chực chờ phía trước. Khí độc phát hiện từ hang thuồng luồng, nơi trũng phía Tây. Còn những hung thần trú ở bọng cây đa to, do người Tàu trấn yểm.

Theo quyển Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, khi giải thích xong chuyện người Tàu trấn yểm, Đức Bổn sư dắt đệ tử trở về núi Tượng. Hôm sau, ông cùng 50 đệ tử trở lại Thủy Đài Sơn để lấp hang thuồng luồng, đốn hạ cây đa và đào lấy cây yểm đem tiêu hủy.

Mặc cho thực dân Pháp khủng bố, Đức Bổn sư vẫn không lùi bước, tiếp tục hướng dẫn tín đồ đến phía Đông núi Tượng khai hoang, mở đạo, lập thôn ấp, cất chùa, miễu để lưu truyền cho hậu thế đến ngày nay. Về sau, ngọn núi Nước được người dân trong vùng xem là ngọn núi thiêng, nằm trong 7 ngọn núi hùng vĩ cho tới bây giờ.

Ông Ngô Văn Chiến kể, núi Nước tuy thấp, nhưng là nơi lưu dấu của các bậc tiền nhân, ẩn chứa nhiều câu chuyện huyền bí thời khẩn hoang, lập làng. Nghe ông bà xưa kể lại, trước vùng này hoang vắng, thú rừng rất nhiều. “Tại ngọn núi này, người đi trước truyền miệng nhau có gặp cặp mãng xà to bằng cây chuối ẩn náo trên núi. Tuy nhiên, cặp rắn này rất hiền, không làm ảnh hưởng tới ai” - ông Chiến cho hay.

Lưu giữ ký ức...

Sống lâu đời dưới chân núi Nước, chú Tư Sơn (71 tuổi) kể: “Nhà tui dưới chân núi cặp mé ruộng, có một cái giếng nước trong xanh, mát lạnh dùng để uống hàng ngày. Sau này, có một bà đến đây lập miếu tu cũng sử dụng nguồn nước giếng này. Có lúc cho rằng, nguồn nước giếng uống vô trị bệnh này nọ” - chú Tư cười khục khặc, rồi nói còn nhiều chuyện thêu dệt lắm.

Bất chợt, chú Tư Sơn nhớ đến câu chuyện tên ác ôn Bảy Đởm từng đến cái giếng này tắm vào mỗi buổi chiều. Thời đó, nghe đến tên Bảy Đởm, bà con vùng Bảy Núi rất sợ và căm hận hắn như tên “đồ tể”. Hắn chuyên mặc đồ bà ba, đội nón cối, tay cầm cây gậy, trong mình lúc nào cũng có khẩu súng ngắn, chuyên hà hiếp dân lành.

Người ta đồn thổi tên Bảy Đởm cùng ông Chau Kem lên núi Tà Lơn học được thứ võ mà “đao thương bất nhập, mình đồng da sắt”. Bảy Đởm biểu diễn móc nhíp lựu đạn cho nổ tung hoặc kêu lính bắn thẳng vào người mà hắn ta không bị gì.

“Nhưng tất cả những lần biểu diễn đó toàn là chiêu trò lừa bịp của hắn để lừa gạt mọi người. Sau đó, tên Bảy Đởm đã bị bắn hạ tại khu vực núi Kéc trên đường về nhà bằng xe jeep” - chú Sơn nhớ lại.

Xưa kia tại ngọn núi Nước, bà con vùng Ba Chúc thường lui tới luyện võ vào những đêm trăng sáng để rèn luyện sức khỏe và phòng thân. Ông Tạo, người từng luyện võ trên núi Nước nói rằng, thời quá khứ vùng này hẻo lánh, cướp bóc lộng hành, giặc giã liên miên. Bà con rủ nhau luyện võ cổ truyền phòng thân và trừ gian diệt bạo. Rồi từ đó, vùng đất này được mệnh danh là nơi luyện võ cổ truyền nổi tiếng.

Ngày nay, vào dịp rằm, lễ lớn trong năm, người dân khắp nơi đổ xô về núi Nước tham quan, vãn cảnh, rồi viếng chùa. Các hoạt động nấu cơm, chiên bánh xèo đãi khách diễn ra tại hậu liêu rất nhộn nhịp. Từ đó, hình thành nét văn hóa đa sắc vùng “thánh địa” Ba Chúc ngày nay.

Theo TS Nguyễn Trung Hiếu, giảng viên Khoa Du lịch và Văn hóa nghệ thuật (Trường Đại học An Giang), ông Ngô Tự Lợi sinh năm 1831 tại Mỏ Cày (Bến Tre). Trong giai đoạn 1867 - 1890, Đức Bổn Sư Ngô Lợi đến cù lao Ba (xã Vĩnh Trường, huyện An Phú) khai đạo. Sau đó, ông cùng tín đồ vào núi Tượng (Ba Chúc) khẩn hoang lập làng, kháng chiến chống Pháp cho đến khi viên tịch. Linh Bửu Tự dưới chân núi Nước nằm trong 14 ngôi chùa được Đức Bổn sư Ngô Lợi thành lập cho tới bây giờ.

 

LƯU MỸ