Phát triển bền vững ngành hàng cá tra

30/06/2025 - 05:00

 - ĐBSCL là vùng trọng điểm về sản xuất và xuất khẩu cá tra của cả nước. Bên cạnh những thuận lợi, ngành hàng này hiện đang đối mặt nhiều khó khăn, như giá cả bấp bênh, chi phí đầu vào tăng cao, cùng những yêu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa ngư dân - doanh nghiệp được xem là giải pháp mang tính chiến lược để ngành cá tra phát triển bền vững.

Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm tạo nên sức mạnh của ngành hàng cá tra, vốn là thế mạnh của vùng ĐBSCL

Liên kết để phát triển

Năm 2024, tổng diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL khoảng 5.370ha, sản lượng thu hoạch khoảng 1,67 triệu tấn, chiếm phần lớn sản lượng cả nước. Các địa phương có sản lượng nuôi lớn, như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long. Tại xã Bình Phú (huyện Châu Phú), ông Trần Thanh Nam, hộ nuôi cá lâu năm chia sẻ: “Giá thức ăn tăng, điện tăng, thuốc thú y thủy sản cũng tăng, trong khi giá cá đầu ra rất bấp bênh. Trước đây, bán cá cho thương lái thì lúc trúng, lúc thất, giờ liên kết với doanh nghiệp, họ bao tiêu đầu ra, hỗ trợ kỹ thuật, ngư dân đỡ lo hơn so với trước”.

Câu chuyện của ông Nam là minh chứng cho những chuyển biến tích cực trong ngành hàng cá tra, khi ngư dân và doanh nghiệp cùng nhau hợp tác. Từ đẩy mạnh phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã đến chuỗi liên kết dọc giữa người nuôi - nhà máy chế biến - doanh nghiệp xuất khẩu… đã tạo nên hệ sinh thái sản xuất đồng bộ, qua đó giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.

Ông Doãn Tới, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt nhìn nhận: “Muốn nâng cao giá trị sản phẩm, trước hết giữa người nuôi và nhà máy phải liên kết. Doanh nghiệp không thể làm một mình, mà cần đồng hành với nông dân và ngành chức năng. Nam Việt đã xây dựng chuỗi khép kín từ con giống, vùng nuôi, đến chế biến sâu và xuất khẩu. Chính chuỗi liên kết này giúp cá tra Việt Nam giữ được chỗ đứng ở thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu”.

An Giang có 1.220ha nuôi cá tra thương phẩm, khoảng 399 cơ sở nuôi, sản lượng khoảng 600.000 tấn mỗi năm. Trong đó có 14 doanh nghiệp, 18 nhà máy chế biến với công suất trên 300.000 tấn/năm. Diện tích liên kết tiêu thụ sản phẩm là 1.072ha, chiếm 87,6% diện tích nuôi toàn tỉnh, một tỷ lệ khá cao so với các tỉnh trong khu vực. Không chỉ bao tiêu sản phẩm, Nam Việt còn đầu tư nghiên cứu giống chất lượng cao, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, ASC, đi đầu trong chế biến sâu như sản xuất collagen, dầu cá, thức ăn chăn nuôi từ phụ phẩm, giúp nâng giá trị cá tra gấp nhiều lần so xuất khẩu sản phẩm thô.

Giải pháp

Hiệu quả của vấn đề liên kết giữa ngư dân và doanh nghiệp trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ mặt hàng cá tra là vậy, tuy nhiên, trong liên kết hiện nay vẫn còn nhiều điểm nghẽn. Ông Lê Trung Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản An Giang phân tích: “Cái khó nhất trong liên kết là niềm tin. Có nơi doanh nghiệp chậm thanh toán, người dân phá vỡ hợp đồng khi giá lên cao… khiến liên kết dễ đứt gãy. Nhiều hợp tác xã còn yếu, thiếu vốn, thiếu năng lực quản lý nên hiệu quả liên kết cũng chưa cao”. Ông Dũng đề xuất cần chuẩn hóa hợp đồng liên kết, minh bạch giá cả, xây dựng cơ chế thưởng - phạt rõ ràng. Nhà nước cần tăng cường thêm nhiều chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ dân trong chuỗi liên kết. Việc mở rộng bảo hiểm nông nghiệp, thành lập quỹ bình ổn giá cá tra để giảm thiểu tác động từ biến động thị trường cũng là các giải pháp thiết thực.

Hiện nay, yêu cầu từ thị trường không chỉ “ngon” còn phải “sạch, minh bạch và truy xuất được nguồn gốc”. Nhiều doanh nghiệp đang áp dụng phần mềm quản lý, hệ thống giám sát môi trường, mã QR truy xuất hành trình con cá từ ao nuôi đến bàn ăn. “Chuyển đổi số không còn là xu hướng, mà là yêu cầu bắt buộc. Mỗi mắt xích trong chuỗi phải kết nối thông tin với nhau, thì mới giữ chân được khách hàng khó tính” - ông Doãn Tới khẳng định.

Để thúc đẩy liên kết hiệu quả, vai trò điều phối của Nhà nước là rất quan trọng. Theo các doanh nghiệp, cơ quan quản lý cần tiếp tục quy hoạch vùng nuôi theo hướng xây dựng vùng nguyên liệu lớn. Giám sát chặt chất lượng giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản. Tổ chức diễn đàn đối thoại giữa 4 nhà, gồm: Nhà nước - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông và Ngân hàng. Hỗ trợ phát triển hợp tác xã kiểu mới, tăng cường đào tạo cán bộ quản lý. Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia làm cơ sở pháp lý ràng buộc hợp đồng liên kết…

Thực tế cho thấy, mô hình liên kết nếu được thiết kế chặt chẽ, triển khai đồng bộ, dựa trên nền tảng niềm tin và minh bạch, việc này sẽ tháo gỡ được những “nút thắt” cố hữu: Giá cả bấp bênh, chất lượng không đồng đều, đầu ra bị thao túng bởi thương lái.

Tổng diện tích nuôi cá tra toàn vùng ĐBSCL là 5.370ha, với sản lượng 1,67 triệu tấn. An Giang có 1.220ha diện tích nuôi, sản lượng 600.000 tấn với 14 doanh nghiệp, 18 nhà máy chế biến. Diện tích liên kết tại An Giang là 1.072ha (chiếm 87,6%).

MINH HIỂN