Xuất khẩu nông lâm thủy sản 70 tỷ USD, tăng 12%, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục là "trụ đỡ" của nền kinh tế

31/12/2025 - 15:54

Chiều 31/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo.

Cùng dự Hội nghị có Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, các Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Tham dự còn có lãnh đạo các Bộ, ngành và đoàn thể Trung ương; lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND 34 tỉnh, thành phố tham dự trực tuyến.

Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 70 tỷ USD, tăng 12% so với 2024

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) ước đạt 70,09 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024 và đạt giá trị cao nhất từ trước đến nay, vượt mục tiêu của năm 2025 (65 tỷ USD). Trong đó, các mặt hàng nông sản đạt 37,25 tỷ USD, tăng 13,7%; sản phẩm chăn nuôi đạt 628 triệu USD, tăng 17,4%; thủy sản đạt 11,32 tỷ USD, tăng 12,7%; lâm sản đạt 18,5 tỷ USD, tăng 6,6%; đầu vào sản xuất đạt 2,38 tỷ USD, tăng 27,1%; muối đạt 12,1 triệu USD, tăng 84,9%.

Xuất siêu 20,7 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước (Thặng dư thương mại của cả nước khoảng 21,18 tỷ USD). Tiếp tục duy trì 10 mặt hàng/nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, đặc biệt có 3 mặt hàng/nhóm hàng đạt trên 8 tỷ USD (sản phẩm gỗ đạt 11,6 tỷ USD (tăng 2,8%), cà phê đạt 8,6 tỷ USD (tăng 52,5%), rau quả đạt 8,6 tỷ USD (tăng 19,8%).

Chiều 31/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo. Ảnh: Tùng Đinh

Về thị trường, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng NLTS của Việt Nam với thị phần chiếm 45,2%. Tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 22,8% và 13,2%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 2,7% và 1,4%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam đi các thị trường khu vực đều tăng (khu vực châu Á tăng 5,8%; châu Mỹ tăng 7,2%; châu Âu tăng 34,2%; châu Phi tăng 68,1% và châu Đại Dương tăng 9%).

Trong đó, thị trường Trung Quốc chiếm 22,3%, Hoa Kỳ chiếm 20,6% và Nhật Bản 7,1% là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu NLTS sang thị trường Trung Quốc tăng 15,9%, Hoa Kỳ tăng 5,4%, Nhật Bản tăng 20,5%.

Có được kết quả trên, năm qua, Bộ NN&MT đã tổ chức các đoàn công tác thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam sang các thị trường Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Đức, Bỉ, Hà Lan, Úc, New Zealand; đón tiếp đoàn công tác của cơ quan thẩm quyền Trung Quốc sang đánh giá hệ thống kiểm soát ATTP và kiểm tra một số cơ sở thủy sản sống xuất khẩu sang Trung Quốc; có văn bản gửi cơ quan thẩm quyền các nước Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Hoa Kỳ đề nghị cập nhật thông tin địa chỉ mới của doanh nghiệp trong danh sách theo chính quyền 2 cấp.

Đến nay, cả nước có 9.336 mã số vùng trồng và 1.379 mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu cho 20 loại quả tươi (thanh long, xoài, dừa, nhãn, viarii, chuối, dưa hấu, sầu riêng, chôm chôm, chanh....) với khoảng 444.800 ha.

"Với việc chủ động đánh giá tác động của chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ, việc tạm dừng nhập khẩu gạo của Philippines và bám sát diễn biến thị trường, quyết liệt, linh hoạt trong tổ chức điều hành triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, đặc biệt cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, mở cửa thị trường mới; năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, khu vực xuất khẩu và các thị trường xuất khẩu chính (trong đó có thị trường Hoa Kỳ) vẫn duy trì đà tăng; cơ cấu thị trường có sự chuyển dịch tích cực, hướng đến xuất khẩu bền vững và ổn định hơn trước", Bộ NN&MT đánh giá.

Năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS ước đạt 70,09 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024 và đạt giá trị cao nhất từ trước đến nay, vượt mục tiêu của năm 2025 (65 tỷ USD). Ảnh: Bình Minh

Đối với thị trường trong nước, Bộ thường xuyên tổng hợp tình hình cung cầu, giá cả các sản phẩm nông sản báo cáo Tổ điều hành thị trường trong nước và Ban chỉ đạo giá của Chính phủ; xây dựng và phát hành bản tin sản xuất và tiêu thụ nông sản trong nước định kỳ hàng tháng. Tham gia với các bộ, ngành, địa phương, đơn vị liên quan hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai các giải pháp liên quan đến thương mại hàng hóa;

Tham mưu Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Công điện chỉ đạo đảm bảo cân đối cung cầu lúa gạo, sản xuất và xuất khẩu sầu riêng, bảo đảm sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trước diễn biến thị trường thế giới và trong nước; tăng cường truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng và uy tín nông sản Việt Nam xuất khẩu; đồng thời đảm bảo cân đối cung cầu, hạn chế biến động giá cả khi vào vụ thu hoạch nông lâm thủy sản và dịp lễ tết cuối năm.

Đề xuất các giải pháp; chỉ đạo các đơn vị xây dựng Kế hoạch phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Bính Ngọ 2026 nhằm bảo đảm nguồn cung và chất lượng, ATTP cho dịp lễ, Tết.

Bên cạnh đó, chương trình xây dựng NTM, chương trình giảm nghèo bền vững; công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của hạn hán, xâm nhập mặn, sa mạc hóa; công tác quản lý đất đai, phát triển kinh tế biển... đạt được nhiều kết quả quan trọng.

9/9 chỉ tiêu đều đạt, nhiều chỉ tiêu còn vượt xa mục tiêu ban đầu

Theo Bộ NN&MT, với những kết quả đột phá đã đạt được, năm 2025, cả 9/9 chỉ tiêu đặt ra của ngành đều đã đạt, nhiều chỉ tiêu còn vượt xa mục tiêu ban đầu, cụ thể:

- Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp bình quân đạt 3,7%/năm; năm 2025 ước khoảng 3,7 – 3,92%.

- Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản bình quân tăng 8,4%/năm, năm 2025 dự kiến đạt 70,09 tỷ USD.

- Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu số xã đạt chuẩn nông thôn mới (79,3%), trong đó tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu 12,2% (vượt so với kế hoạch đề ra là 10%).

- Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 5,2% năm 2021 xuống 1,93% năm 2024, ước năm 2025 còn giảm 1,0%.

- Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh của dân cư nông thôn đạt 94,5% năm 2024 và dự kiến năm 2025 đạt 95,5%.

- Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn bình quân đạt 96,7%/năm, năm 2025 đạt 97,28%.

- Tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 92,3% (vượt, kế hoạch 92%).

- Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định ở mức 42,02%; năm 2024 và 2025 đạt 42,03% (vượt, kế hoạch 42%).

- Tổng mức giảm phát thải khí nhà kính của các lĩnh vực dự tính đã vượt mục tiêu giảm 7,3% so với Kịch bản phát triển thông thường (BAU) bằng nguồn lực trong nước theo mục tiêu NDC cập nhật năm 2022.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển ngành Nông nghiệp và Môi trường năm 2025, giai đoạn 2020 - 2025 và triển khai kế hoạch năm 2026. Ảnh: Tùng Đinh.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, sau khi hợp nhất, cơ cấu tổ chức của Bộ đã được điều chỉnh và tinh gọn: giảm 25/55 đầu mối (giảm 45,45%), giảm 19/78 đơn vị sự nghiệp trực thuộc (giảm 24,36%); giảm 63/301 đầu mối cấp phòng trực thuộc các đơn vị (giảm 20,9%). Bộ cũng đã giảm 30/80 đơn vị sự nghiệp công lập (giảm 37,5%).

Đặc biệt, trong Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV vừa qua, Bộ đã tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội thông qua 2 Luật và 1 Nghị quyết quan trọng sửa đổi, bổ sung 17 Luật trong lĩnh vực quản lý của ngành), tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, Bộ đã thực hiện phân cấp, phân quyền triệt để cho chính quyền địa phương khi vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và cải cách, đơn giản hóa TTHC và điều kiện đầu tư, kinh doanh.

Bộ trưởng khẳng định: "Với những kết quả đã đạt được, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế".

Với những kết quả đạt được, có thể khẳng định rằng trong năm 2025 và giai đoạn 2021-2025, Bộ NN&MT đã phát huy tốt vai trò cơ quan quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp với quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; qua đó, góp phần thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Theo Dân Việt