Năm 2019, thu ngân sách nhà nước vượt dự toán mức cao nhất trong 5 năm. (Ảnh: M.P)
1. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật tài chính, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh
Trong năm 2019, Bộ Tài chính đã hoàn thành việc xây dựng các dự án Luật, Nghị quyết quan trọng để Chính phủ trình Quốc hội thông qua như: Luật Quản lý thuế (sửa đổi); Luật Chứng khoán (sửa đổi); Nghị quyết của Quốc hội về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước (NSNN).
Ngoài ra, đã phối hợp với Bộ Công thương trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ.
Cũng trong năm 2019, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ 15 Nghị định; trình Thủ tướng Chính phủ 10 Quyết định; tính cả số đề án Bộ Tài chính đã trình từ năm 2018 chuyển sang, đã có 12 Nghị định, 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo đã được ký ban hành. Đồng thời, ban hành theo thẩm quyền 87 Thông tư về lĩnh vực quản lý tài chính – NSNN.
Việc kịp thời xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật tài chính đã góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh cải cách hành chính, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
2. Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán
Tính đến ngày 31/12/2019, thu NSNN ước đạt 1.539,4 nghìn tỷ đồng, vượt 9,1% so với dự toán (thu ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều vượt dự toán), nhờ đó đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế, an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và có thêm nguồn để xử lý các nhu cầu quan trọng, cấp thiết phát sinh. Công tác quản lý, điều hành chi NSNN bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm. Bội chi NSNN được giữ trong phạm vi Quốc hội quyết định.
Việc kiểm soát bội chi cũng như việc thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các giải pháp nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 19/11/2016 của Quốc hội đã góp phần kiểm soát tốc độ tăng quy mô nợ công, nợ Chính phủ trong những năm vừa qua.
Việc kiểm soát tốc độ gia tăng quy mô nợ công từ mức bình quân 18,1%/năm trong giai 2011-2015 xuống dưới 7%/năm trong giai đoạn 2016-2019, thấp hơn so với tốc độ tăng quy mô GDP trực tiếp giúp duy trì xu hướng giảm dần của các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ so với GDP.
3. Sắp xếp tổ chức bộ máy ngành Tài chính theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương khóa XII, trong năm 2019, Bộ Tài chính đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức bộ máy các đơn vị, kết quả đã thực hiện giảm 2.172 đầu mối đơn vị hành chính.
Trong đó, Tổng cục Thuế tiến hành 3 đợt sắp xếp, hợp nhất Chi cục thuế để thành lập Chi cục thuế khu vực tại 61 Cục thuế. Tổng số giảm được 1.968 đầu mối. Trong đó, giảm 193 Chi cục thuế, giảm 1.712 Đội thuế thuộc Chi cục thuế, đồng thời, thực hiện cắt giảm 63 phòng tại Cục thuế tỉnh/thành phố. Kho bạc Nhà nước (KBNN) thực hiện cắt giảm 128 phòng thuộc KBNN cấp tỉnh, 15 KBNN cấp huyện và xóa bỏ 48 đơn vị cấp tổ, đội tại KBNN Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tổng cục Hải quan thực hiện tổ chức, sắp xếp giảm 12 Chi cục Hải quan thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố. Cơ quan Bộ Tài chính giảm 1 đơn vị cấp phòng. Kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy năm 2019 đã góp phần giảm tổng số 2.719 đầu mối hành chính trong 02 năm thực Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước trong phạm vi cả nước.
4. Tiếp tục giữ vị trí tốp đầu về cải cách hành chính và tiên phong trong triển khai Chính phủ điện tử
Theo kết quả đánh giá, xác định chỉ số cải cách hành chính (Par Index) năm 2018 do Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ công bố tháng 5/2019, Bộ Tài chính tiếp tục nằm trong top đầu khối 18 bộ, ngành có kết quả cải cách hành chính mạnh mẽ. Với kết quả này, Bộ Tài chính đã nâng bậc xếp hạng, từ vị trí thứ ba lên vị trí thứ hai.
Theo Báo cáo Vietnam ICT Index năm 2019 được công bố ngày 23/8/2019, Bộ Tài chính tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng chung của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có dịch vụ công. Đặc biệt, đây là năm thứ 7 liên tiếp Bộ Tài chính đứng ở vị trí nhất bảng, kể từ năm 2013. Cụ thể, Bộ Tài chính tiếp tục đứng ở vị trí thứ 1 về Vietnam ICT Index 2019 với chỉ số mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT là 0,9770, bỏ xa khoảng cách so với các bộ giữ vị trí thứ 2 và 3 trong bảng xếp hạng.
Năm 2019, các dịch vụ công trực tuyến của ngành Tài chính đã được người dân, tổ chức và doanh nghiệp tiếp nhận và sử dụng rất hiệu quả. Số lượng hồ sơ tiếp nhận qua phương thức trực tuyến năm 2019 của ngành Tài chính mức độ 3, 4 lên tới gần 67 triệu hồ sơ. Tính đến ngày 24/12/2019, tổng số thủ tục hành chính (TTHC) của Bộ Tài chính là 951 thủ tục. Trong đó, dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 là 100, dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 là 351, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là 197, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 là 303. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Bộ Tài chính ngày càng được nâng cao và phát triển theo hướng hiện đại hóa giúp đơn giản hóa thủ tục, cắt giảm chi phí và thời gian cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước của Bộ.
5. Công tác quản lý giá cả, bình ổn thị trường triển khai hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát năm 2019 dưới chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ đặt ra
Năm 2019, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra mục tiêu thực hiện kiểm soát lạm phát bình quân dưới mức 4%. Trong bối cảnh áp lực lên việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ngày càng lớn như các diễn biến bất ổn về kinh tế, chính trị thế giới tác động khó lường đến kinh tế trong nước; việc thực hiện lộ trình thị trường đối với các mặt hàng do nhà nước định giá như điện, dịch vụ y tế, giáo dục ngày càng cấp bách; áp lực từ mặt bằng giá trong nước của một số mặt hàng như giá thực phẩm… Công tác tổ chức triển khai các biện pháp quản lý, điều hành giá đã được ngành Tài chính thực hiện toàn diện trên tất cả mọi mặt, qua đó đã kiểm soát lạm phát năm 2019 ở mức thấp hơn so với chỉ tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, CPI bình quân cả năm 2019 chỉ tăng 2,79% so với năm 2018, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng.
6. Chỉ số nộp thuế của Việt Nam tăng 22 bậc
Theo Báo cáo môi trường kinh doanh - Doing business 2020 (DB 2020) toàn cầu do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 24/10/2019, chỉ số nộp thuế (Paying Taxes) của Việt Nam tăng ấn tượng lên 22 bậc, từ vị trí thứ 131 lên xếp thứ 109 trong tổng số 190 quốc gia được đánh giá. Phần lớn các chỉ số để đánh giá đều có sự cải thiện so với năm trước đó và được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam. Cụ thể: thời gian nộp thuế giảm 114 giờ (từ 498 xuống 384 giờ); trong đó, 94 giờ giảm là do cải cách, đơn giản hóa tại các thủ tục về khai thuế giá trị gia tăng và 20 giờ giảm là do những cải cách, đơn giản hóa các thủ tục về nộp và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Số lần nộp thuế giảm từ 10 lần năm 2019 xuống còn 6 lần năm 2020.
Với kết quả đánh giá của WB, cải cách thủ tục hành chính của ngành Thuế năm nay đã vượt mục tiêu của Nghị quyết số 02 của Chính phủ.
7. Thị trường trái phiếu phát triển mạnh nhất từ trước đến nay, Chứng khoán trở thành kênh huy động vốn hiệu quả
Năm 2019, tiếp nối kết quả đạt được trong các năm trước, trong điều kiện thị trường thuận lợi, 100% khối lượng trái phiếu chính phủ (TPCP) phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, trong đó 94% khối lượng phát hành có kỳ hạn 10 năm trở lên. Kỳ hạn phát hành bình quân đạt mức kỷ lục 13,44 năm, tăng 0,75 năm so với cuối năm 2018 (12,69 năm) và tăng 8,6 năm so với năm 2014 (4,84 năm); trong khi đó lãi suất phát hành bình quân có xu hướng giảm (4,51%/năm), giảm từ 1,25%/năm-1,82%/năm đối với mỗi loại kỳ hạn so với thời điểm đầu năm 2019. Kết quả là danh mục nợ TPCP ngày càng tăng tính bền vững theo đúng chủ trương của Đảng, Chính phủ về tái cơ cấu NSNN và nợ công.
Cùng với sự phát triển của thị trường TPCP, thị trường Chứng khoán Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và là điểm đến hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ số VNIndex đạt 965,03 điểm, tăng 8,1% so với cuối năm 2018, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 4.390 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với cuối năm 2018, tương đương 79,3% GDP; quy mô niêm yết thị trường trái phiếu đạt 1.158 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với cuối năm 2018, tương đương gần 21% GDP. Năm 2019, Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua là mốc son quan trọng, cùng với sự ra đời của các sản phẩm mới chứng quyền có bảo đảm, Hợp đồng tương lai trên trái phiếu chính phủ và Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Đề án thành lập Sở giao dịch Chứng khoán Việt Nam đã tạo nền tảng để thị trường phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả, là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế.
8. Hải quan thực hiện thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu vượt mức 500 tỷ USD
Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam vượt mức 500 tỷ USD vào ngày 20/12/2019. Trước đó, Tổng cục Hải quan cũng đã ghi tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta cán mốc 400 tỷ USD trong tháng 12/2017 và cán mốc 200 tỷ USD trong tháng cuối cùng năm 2011.
Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới công bố ngày 02/04/2019, trong năm 2018: xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được xếp vị trí thứ 26 trên thế giới (tăng 1 bậc so với năm 2017) và có vị trị thứ 4 trong ASEAN (sau Singapore, Thái Lan và Malaysia); nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam được xếp vị trí thứ 23 trên thế giới (tăng 2 bậc so với năm 2017) và có vị trí thứ 3 trong ASEAN (sau Singapore và Thái Lan). Trong ASEAN, nếu tính chung tổng trị giá xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa thì Việt Nam có vị trí thứ 3 (sau Singapore và Thái Lan).
Trong năm 2006, Việt Nam mới gia nhập nhóm 50 nền kinh tế có trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới thì từ năm 2016 đến nay Việt Nam luôn ở trong nhóm 30 nước, vùng lãnh thổ có trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất trên phạm vi toàn cầu.
9. Mô hình “Tài khoản Kho bạc duy nhất” nhằm quản lý ngân quỹ nhà nước an toàn, hiệu quả và góp phần thực hiện chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Nhằm đáp ứng yêu cầu thanh toán với khối lượng ngày càng tăng và tạo thuận lợi hơn cho người nộp NSNN, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 58/2019/TT-BTC ngày 30/8/2019 quy định về quản lý và sử dụng tài khoản của KBNN mở tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Ngân hàng thương mại, trong đó, bổ sung quy định kết chuyển toàn bộ số dư cuối ngày từ địa phương về trung ương và gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Đây là một bước tiến mới, đưa công tác quản lý và sử dụng tài khoản của KBNN tại ngân hàng nói riêng và công tác quản lý ngân quỹ nói chung tiến sát với các thông lệ tiên tiến trên thế giới, phù hợp với định hướng cải cách quản lý ngân quỹ theo Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020.
Triển khai các quy định tại Thông tư số 58/2019/TT-BTC đã hình thành "Tài khoản Kho bạc duy nhất", tập trung toàn bộ ngân quỹ nhà nước cuối ngày về Ngân hàng Nhà nước, nâng cao khả năng thanh khoản, tạo cơ sở để cải thiện chất lượng công tác dự báo luồng tiền, tối ưu hóa việc sử dụng các khoản ngân quỹ tạm thời nhàn rỗi; qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý ngân quỹ quốc gia.
10. Quyết liệt và xuất cấp kịp thời hỗ trợ các địa phương và nhân dân, hỗ trợ học sinh tại các trường ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Đến nay, tổng trị giá hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp khoảng 1.519 tỷ đồng, trong đó: số lượng hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp luôn đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng và phân bổ đúng đối tượng, đã động viên người dân vượt qua thời điểm khó khăn, ổn định đời sống phát triển sản xuất; góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội và tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ.
Theo Đảng Cộng Sản Việt Nam