Cây đinh lăng cao 0,8-1,5m hoặc hơn, nhẵn và không có gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20-40cm, lá chét cuống mảnh, dài 5-15mm, dạng màng, răng không đều, thường bị khía hoặc chia thùy, nhọn, dài 3-10cm, rộng 0,6-4cm. Hoa nhỏ, thành chùy, tán ngắn, dài 7-18cm. Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng cỡ 3-4mm, dầy 1mm mang các vòi nhụy tồn tại.
Trong đinh lăng có các alcoloid, glucozit, saponin, flavonoid, tanin, vitamin B. Các axit amin gồm lyzin, xystei và methionin là những axit amin không thể thay thế được.
Lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng - Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Hội Đông y Hà Nội cho biết, trong đông y lá đinh lăng vị bùi, đắng, thơm, hơi mát, tác dụng lương huyết, giải độc, chống tanh hôi, lợi niệu, tiêu mẩn ngứa. Lá đinh lăng được dùng trong các bài thuốc chữa dị ứng, ho ra máu, kiết lỵ.
Ngoài ra, lá của cây đinh lăng thường được dùng dưới dạng thuốc sắc, rượu ngâm hoặc bột khô để chữa chứng ho, đau tức vú, tắc tia sữa, làm lợi sữa, chữa kiết lỵ và làm thuốc tăng lực, chữa chứng suy nhược cơ thể.
Cây đinh lăng được mọi người dùng để ăn như rau làm gia vị và chữa nhức đầu. Nhiều nơi thường lấy lá đinh lăng để nấu canh với thịt, cá bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy.