Chuyên gia tội phạm học 'giải mã' vụ vận chuyển trái phép 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài

23/12/2020 - 18:47

Trung tá Đào Trung Hiếu (Chuyên gia tội phạm học, Bộ Công an) cho rằng, việc vận chuyển 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài không phải là việc mà một người làm được, mà tội phạm hoạt động theo ổ nhóm, đường dây, có sự phân công vai trò của từng người trong đồng phạm.

“Gần gũi” với tội phạm rửa tiền, tham nhũng

Ngày 18-12, ông Vương Đình Huệ-Bí thư Thành ủy Hà Nội đã gửi Thư khen Phòng Cảnh sát kinh tế CATP Hà Nội có thành tích xuất sắc điều tra làm rõ vụ vận chuyển trái phép 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài.

Nội dung thư nêu, thời gian vừa qua, Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an thành phố Hà Nội đã rất tích cực, chủ động, nhạy bén trong công tác nắm tình hình, lập chuyên án đấu tranh và đã khởi tố vụ án “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, khởi tố 10 bị can. Hiện đang tiếp tục điều tra mở rộng vụ án.

Đây là vụ án nghiêm trọng, phức tạp, diễn ra trong thời gian dài. Phương thức, thủ đoạn của các bị can hết sức tinh vi để chuyển số tiền đặc biệt lớn (gần 30.000 tỷ đồng) từ Việt Nam ra nước ngoài trái phép, nhằm che giấu hành vi phạm tội khác.

Trước đó, ngày 25/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố đối với 6 bị can gồm: Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Nguyệt, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Thực, Nguyễn Thị Hà về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.

Kết quả bước đầu của chuyên án xác định, Nguyễn Văn Thắng cùng đồng phạm thành lập nhiều công ty để làm thủ tục hồ sơ tạm nhập tái xuất lợi dụng vận chuyển hàng hóa, tiền tệ trái phép qua biên giới.

Trung tá Đào Trung Hiếu (Chuyên gia tội phạm học, Bộ Công an)

Liên quan đến vụ vận chuyển trái phép 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài, Trung tá Đào Trung Hiếu (Chuyên gia tội phạm học, Bộ Công an) đã có những phân tích dưới góc nhìn của một chuyên gia tội phạm học.

Theo Trung tá Đào Trung Hiếu, việc chuyển tiền ra nước ngoài là một loại “dịch vụ ngầm” cho lợi nhuận rất cao. Bình quân phí dịch vụ từ 0,3% đến 0,75% tổng số tiền chuyển đi. Địa chỉ nhận tiền gồm nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cốt lõi của thủ đoạn chuyển tiền ra nước ngoài trái phép trong trường hợp này là giả mạo việc thanh toán giao dịch hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế. Nghĩa là người phạm tội biến hoạt động chuyển tiền được diễn ra hợp pháp, thông qua nghiệp vụ thanh toán quốc tế của ngành ngân hàng.

Để làm được việc này, đầu tiên người phạm tội phải làm giả các hồ sơ thương mại quốc tế, bằng cách mua (hoặc mượn) hồ sơ pháp nhân của các doanh nghiệp (có chức năng xuất nhập khẩu hàng hóa). Khi đã có hồ sơ của doanh nghiệp, người phạm tội căn cứ vào đó để làm các thủ tục của bộ hồ sơ thương mại quốc tế, gồm hợp đồng thương mại, phụ lục hợp đồng, công văn đề nghị mở tài khoản, giấy ủy quyền, lệnh chuyển tiền, giấy đề nghị bán ngoại tệ, lệnh chuyển tiền, yêu cầu chuyển tiền…Trên thị trường “ngầm”, có những doanh nghiệp sẵn sàng bán hồ sơ thương mại với giá từ 80 triệu đến 120 triệu đồng/1 triệu USD ghi trên tờ khai hải quan.

Trong các hồ sơ thương mại phục vụ cho việc chuyển tiền tại các ngân hàng, người phạm tội thường phải làm giả con dấu, tài liệu của các cơ quan, tổ chức có liên quan, chẳng hạn như thủ tục hải quan, chứng chỉ xuất xưởng hàng hóa của nhà sản xuất (CO, CQ…). Sau khi có hồ sơ thương mại, các đối tượng móc nối với nhân viên ngân hàng, cụ thể là bộ phận thanh toán quốc tế, để làm các thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài theo yêu cầu của khách. Số tiền thu lợi sau khi trừ đi các chi phí mua hồ sơ, phí ngân hàng, các đối tượng chia nhau theo tỉ lệ đã thỏa thuận từ trước.

Quá trình chuyển tiền, người phạm tội thường không biết gì về nguồn gốc số tiền chuyển, mục đích, lý do chuyển tiền cho khách hàng thụ hưởng tại nước ngoài.

Số tiền mà khách yêu cầu chuyển ra nước ngoài, chủ yếu là “tiền bẩn”, nghĩa là tài sản do phạm tội mà có, như tiền tham nhũng, buôn lậu, buôn bán ma túy, cờ bạc, cá độ bóng đá. Không nhất thiết số tiền này có xuất xứ từ Việt Nam, mà có thể được chuyển từ nước ngoài về (theo đường tiểu ngạch, qua các kênh không hợp pháp), rồi bằng hoạt động chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài, nguồn gốc đồng tiền đã được “rửa sạch”, vì mang danh nghĩa đơn vị đối tác nước ngoài thanh toán hợp đồng thương mại quốc tế. Người thụ hưởng có thể là thân nhân của kẻ gửi tiền, hoặc các tổ chức tội phạm.

Trung tá Hiếu cho rằng, loại tội phạm này rất “gần gũi” với tội phạm rửa tiền hay tham nhũng. Đây không phải là việc mà một người làm được, nghĩa là tội phạm hoạt động theo ổ nhóm, đường dây, có sự phân công vai trò của từng người trong đồng phạm.

Các bị can đối diện hình phạt nào?

Qua theo dõi vụ việc, luật sư Nguyễn Anh Tuấn, (Công ty luật Đại Nam, đoàn luật sư TP Hà Nội) nhận định, hành vi vận chuyển tiền tệ qua biên giới vi phạm quy định về quản lý tiền tệ, tùy vào tính chất mức độ vi phạm, tùy thuộc vào số tiền vận chuyển trái phép mà người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cụ thể: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 189 Bộ Luật hình sự 2015:

1. Người nào vận chuyển qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 02 năm: a) Hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một trong các điều 188, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này; b) Di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 2 năm đến 5 năm:

a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; c) Vật phạm pháp là bảo vật quốc gia; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e) Phạm tội 02 lần trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp trị giá từ 500. triệu đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 5 năm đến 10 năm...

Theo luật sư Tuấn, với số tiền vận chuyển trái phép qua biên giới đặc biệt lớn như trên, các đối tượng trong vụ án này sẽ phải đối mặt với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến 10 năm tù và số tiền trên sẽ bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ làm rõ nguồn gốc số tiền này. Nếu là số tiền hợp pháp thì thu nhập từ số tiền này phải nộp thuế và việc vận chuyển qua biên giới họ sẽ phải khai báo. Còn trường hợp số tiền trên là do phạm tội mà có hoặc trốn thuế, cơ quan điều tra sẽ khởi tố thêm các tội danh khác, để xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo Báo Công Lý