Thời điểm ấy, Bộ Tổng Tư lệnh nhìn nhận rằng: trận Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo nên chiến thắng vang dội để chấm dứt kháng chiến trường kỳ; quyết định tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Vì vậy, từ phương châm chọn nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất để đánh, 16 ngày sau Tổng Quân ủy quyết định thay đổi kế hoạch chọn chỗ mạnh nhất của địch để đánh, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị đồng ý mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh”.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập, Bác Hồ giao cho đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng ủy, kiêm Tư lệnh mặt trận. Trước khi ra trận, Bác nói: “Bác giao cho chú toàn quyền, tướng quân tại ngoại, trận này chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh”. Ngày 14-1-1954, tại hang Thẩm Púa, đại tướng Tổng Tư lệnh và Ban Chỉ huy mặt trận họp phổ biến mệnh lệnh tác chiến với phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”; ngày nổ súng dự định là 20-1-1954. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt Điện Biên Phủ trong thời gian 3 ngày 2 đêm bằng cách: bắn 2.000 quả pháo vào lũng chảo Điện Biên Phủ, sau đó sử dụng bộ binh đồng loạt tiến công, thọc sâu, xung phong thì địch không kịp trở tay. Để thực hiện phương án “Đánh nhanh, thắng nhanh”, ta huy động 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo.
Tại cuộc họp Đảng ủy mặt trận ngày 25-1-1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công; ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Sau này, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là “quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của mình”. Sự thay đổi phương án ấy có rất nhiều lý do.
Thứ nhất, tuy ta có quân số đông hơn đối phương, nhưng chưa có kinh nghiệm đánh công kiên lớn trên cấp tiểu đoàn. Theo lý thuyết quân sự “Ba tấn một thủ”, bên tấn công phải mạnh hơn bên phòng thủ ít nhất là 3 lần cả về quân số lẫn hỏa lực thì mới cân bằng lực lượng. Về quân số, quân ta vừa đạt tỷ lệ này, nhưng về hỏa lực và trang bị thì ta lại kém Pháp nhiều lần. Thứ hai, việc tiếp cận các đồn bốt Pháp không dễ dàng, vì khi quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20-1-1953, một trong những công việc đầu tiên của Pháp là san phẳng mọi chướng ngại vật trong thung lũng, để tạo điều kiện tối đa cho tầm nhìn và tầm tác xạ của các loại hỏa lực. Giữa địa hình trống trải, dày đặc dây kẽm gai và bãi mìn, phơi mình trước hỏa lực của Pháp mà không hề có xe thiết giáp và chướng ngại vật che chắn, thì quân ta tấn công dù đông đảo tới đâu cũng sẽ bị bom, pháo và đại liên của Pháp gây sát thương. Thứ ba, tính tổng thể thì Pháp ở đáy một chiếc mũ lộn ngược, còn quân ta ở trên vành mũ; nhưng ở quy mô của từng trận đánh, thì Pháp lại ở trên cao, ta ở dưới thấp tấn công lên. Trung bình cứ 1 bộ đội Việt Nam phải hứng chịu 2 trái đại bác, 1 trái bom và 6 viên đạn cối, trong khi đó ta không có xe tăng để che chắn, yểm trợ cho bộ binh khi tiến công. Thứ tư, khó khăn lớn nhất của quân đội ta là khâu tiếp tế hậu cần. Vì vậy, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá tự tin cho rằng, Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả chiến bại”, là “cái bẫy để nghiền nát chủ lực Việt Minh”. Nếu Việt Minh tấn công sẽ chỉ chuốc lấy thảm bại.
Cùng với một số lý do khác, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cân nhắc và ra quyết định “đánh chắc, tiến chắc”. Trong hồi ký của mình, tướng Nava đã khẳng định: “Nếu tướng Giáp tiến công vào ngày 25-1 như ý đồ ban đầu, thì chắc chắn ông ta sẽ thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông tạm ngưng tiến công”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ mang đến những bài học lịch sử to lớn, tính thời đại sâu sắc. Đó là việc luôn luôn chủ động, nắm chắc tình hình, phân tích đúng tình hình, đề ra chiến lược và sách lược, phương án tác chiến phù hợp, buộc địch đánh theo cách đánh của ta. Việc thay đổi “đánh nhanh, thắng nhanh”, sang “đánh chắc, tiến chắc” là một nghệ thuật quân sự thiên tài, một di sản chiến lược còn nguyên giá trị; tạo ra chiến thắng oanh liệt ngày 7-5-1954 trước một lực lượng quân sự mạnh hơn và hiện đại hơn, đến từ một đất nước hùng mạnh gấp bội ta. Dù là chiến dịch quân sự trong thời chiến, hay kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời bình, thì yếu tố sự bền vững, chắc thắng là yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa đến thành công. Sự bền vững sẽ tránh được những yếu tố nóng vội, chủ quan.

Bộ đội ta kéo pháo vào trận địa

Cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm Đờ Cát-xtơ-ri tại Điện Biên Phủ chiều 7-5-1954. Ảnh: TƯ LIỆU
GIA KHÁNH (Tổng hợp)