Trong bối cảnh mưa lũ cực đoan diễn biến phức tạp, mưa lớn kéo dài, lũ chồng lũ liên tiếp xảy ra tại nhiều địa phương, câu chuyện vận hành hồ chứa, đặc biệt là các hồ thủy điện, tiếp tục làm nóng dư luận. Đáng lo hơn, trong số khoảng 7.000 đập trên cả nước, hiện nhiều đập ở thượng nguồn đã xuống cấp, khả năng điều tiết lũ không còn đáp ứng yêu cầu, trong khi hạ du là cộng đồng dân cư hoặc những khu vực đông người sinh sống.
Trước thực trạng trên, nhiều ý kiến chuyên gia, cơ quan quản lý cho rằng giải pháp cấp bách hiện nay là cần phải chuẩn hóa dữ liệu hệ thống hồ chứa cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, đặc biệt là giải quyết được các bài toán thực tế như dự báo lũ, kịp thời cắt giảm lũ cho hạ du.
Thiên tai “phơi bày” lỗ hổng vận hành hồ chứa
Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hồ chứa không chỉ là công trình thủy lợi mà còn đóng vai trò “lá chắn” bảo vệ dân cư, đảm bảo an ninh nguồn nước và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nỗi lo lớn hiện nay là nhiều công trình đã xây dựng từ lâu, trong khi hệ thống thông tin và dự báo chưa đồng bộ.
Thực tế từ đầu năm 2025 đến nay cho thấy thời tiết diễn biến rất “dị thường và cực đoan” với chuỗi các cơn bão số 5, 9, 10, 11 di chuyển rất nhanh, quỹ đạo khác hẳn quy luật nhiều năm trước. Cùng với đó, hàng loạt trận mưa lớn cực đoan lặp đi lặp lại, thậm chí nhiều nơi ghi nhận giá trị lịch sử.
Trong khi đó, không gian thoát lũ tại nhiều địa phương bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát không theo kịp; việc phối hợp vận hành liên hồ hiện vẫn đang là “điểm mù” lớn khi hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu còn hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực.
Ngoài ra, quy trình vận hành nhiều hồ chứa đã lạc hậu nhưng đến nay vẫn chưa được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực, gây khó cho công tác quản lý, chỉ đạo. Khi mưa lũ xảy ra, khả năng tiêu thoát nước, chống ngập của nhiều vùng hạ du, đặc biệt là các đô thị lại vượt ngưỡng chịu đựng. Hệ lụy là trong năm nay, nhiều địa phương đã bị ngập sâu.
Ngay tại các khu vực núi cao, xưa nay ít bị ngập trong “biển nước” như Gia Lai, Đắk Lắk, Cao Bằng, Hà Giang, thì gần đây cũng liên tiếp bị mưa lũ "nhấn chìm," gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
Thừa nhận mưa lũ cực đoan đã “phơi bày” loạt vấn đề trong vận hành hồ chứa và dự báo thời tiết cực đoan trong thời gian qua, ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho rằng việc quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa trên cả nước hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức và đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới.
Vì thế hiệu quả cắt lũ của hệ thống hồ chứa thủy lợi vẫn chưa đạt kỳ vọng, nhất là với những hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết, hoặc những hồ chứa chủ động hạ mực nước đón lũ do thiếu tự tin về dự báo.
Đơn cử, nhiều quy trình vận hành hồ đơn và liên hồ hiện nay được xây dựng trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, chưa phản ánh các giá trị cực trị mới trong 2-3 năm gần đây, nên khi mưa lớn xuất hiện, mực nước có thể gấp 4-6 lần trung bình tháng và lũ vượt xa các kỷ lục trước đó. Ngoài ra, quy trình hiện hành còn nặng tính ổn định, trong khi thực tế số liệu mưa, lũ biến động rất nhanh.
Nhiều khu vực tại phường Quy Nhơn Đông (tỉnh Gia Lai) ngập sâu trong nước. (Ảnh: Quang Thái/TTXVN)
Còn theo Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, "gốc rễ" của bất cập nằm ở việc xung đột lợi ích và khoảng trống pháp lý trong quản lý an toàn đập.
Theo ông Dũng, nhiều hồ thủy điện hiện nay có dung tích phòng lũ quá nhỏ so với tổng dung tích chứa. Muốn tăng dung tích phòng lũ, Nhà nước buộc phải yêu cầu chủ đầu tư hạ thấp mực nước hồ từ sớm, nhưng nếu hạ nước trước mà mưa không đến, nhà máy sẽ thiếu nước phát điện, tua-bin mài mòn do vận hành ở mức công suất thấp, doanh thu sụt giảm.
Ông Dũng nhấn mạnh khi phải xả nước theo mệnh lệnh hành chính, nhiều chủ đầu tư "rơi" vào trạng thái “miễn cưỡng tuân theo” nên vận hành vừa làm vừa dè chừng. Điều này dễ dẫn đến xử lý bị động và làm gia tăng rủi ro.
Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Quốc Dũng dẫn ví dụ khi hồ nhận yêu cầu xả từ 0-5.000m³/s. Với chỉ đạo “lưng lửng” như vậy, buổi sáng hồ chỉ xả 200-300m³/s, nhưng đến khoảng 15 giờ - thấy nước lên nhanh, lại mở toàn bộ cửa xả lên 4.000m³/s, khiến hạ du bị dâng đột ngột, người dân không kịp trở tay…
Trước thực tế đáng lo trên, ông Dũng đề xuất cơ quan quản lý cần sớm xây dựng và áp dụng bản đồ ngập lụt kết hợp định vị. Theo ông, khi làm được bản đồ ngập theo thời gian thực, các địa phương sẽ biết khu vực nào lũ đang đến, mực nước bao nhiêu, có bao nhiêu người trong vùng nguy hiểm...
Cần phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện
Với vai trò cơ quan quản lý, ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho rằng ngành thủy lợi cần chuyển mạnh sang tiếp cận “quản lý rủi ro và quản trị rủi ro,” quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì chỉ nhìn từng hồ hay từng ngành.
Ông Phong nhấn mạnh các giải pháp phải kết hợp cả “phần cứng” và “phần mềm.” Nghĩa là vừa cải tạo, nâng cấp công trình phù hợp với yêu cầu mới, vừa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, dữ liệu và mô hình dự báo.
Lụt ngập diện rộng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa khiến nhiều nhà dân bị chìm trong biển nước. (Ảnh: TTXVN phát)
Trong đó, theo ông Phong, nhiệm vụ quan trọng của hồ chứa là phải được xác định rõ là đa mục tiêu. Đó là vừa cắt giảm lũ, vừa đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, đồng thời cấp nước cho dân sinh, sản xuất.
Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng lưu ý, tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m³ trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn lịch sử.
Bên cạnh, ông Nguyễn Tùng Phong cũng đề cập tới giải pháp nâng cao năng lực dự báo - cảnh báo, kết nối và khai thác hiệu quả dữ liệu từ các hệ thống như Vrain, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ dự báo, các mô hình mưa - dòng chảy và thủy lực. Mục tiêu là từng bước chuyển từ “dự báo” sang “thông báo đủ tin cậy” để đơn vị vận hành có thể mạnh dạn hạ mực nước hồ đón lũ, tận dụng tối đa dung tích phòng lũ nhưng vẫn an toàn.
Để đạt được mục tiêu trên, ông Phong cho rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan, thiên tai diễn biến khó lường.
Về thể chế, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự kiến sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi vào giai đoạn 2027-2028 và xem xét sửa đổi, thay thế nghị định liên quan sau khi tổng kết đầy đủ những diễn biến cực đoan vừa qua./.
Theo thống kê sơ bộ từ Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai, tính đến 6 giờ ngày 24/11, mưa lũ và sạt lở đất tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã làm 102 người chết, mất tích; 202.146 nhà bị sập đổ, hư hỏng và ngập. Có 82.147 ha lúa, hoa màu; 117.067 ha cây trồng lâu năm; 1.157 ha thủy sản bị thiệt hại; hơn 3,3 triệu con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; công trình thủy lợi và kết cấu hạ tầng ở nhiều nơi bị hư hỏng.
Tổng thiệt hại ban đầu về kinh tế ước tính khoảng 13.078 tỷ đồng.




Đọc nhiều