
Kiểm tra nhiệt độ nước ao vào ban đêm. Ảnh: THÚY NGA
Mùa đông, nhiệt độ nước ao nuôi xuống thấp dưới 20oC, tôm sẽ ngừng sinh trưởng, cường độ bắt mồi thấp, giảm ăn, hệ số FCR tăng cao, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 0,2g/con/ngày (mùa nắng 0,3g/con/ngày). Điều này đồng nghĩa thời gian nuôi sẽ kéo dài hơn 1,5 lần. Cường độ bắt mồi và chuyển hóa thức ăn kém, trong khi độ mặn, pH, kiềm thay đổi làm tôm khi lột xác thường bị chết do mềm vỏ.
Cùng với đó, nhiệt độ xuống thấp làm cho hoạt động xi phông vệ sinh đáy của công nhân thường không đảm bảo. Lượng chất thải, thức ăn dư thừa, xác chết và vỏ tôm còn dư lại trong ao khi trời nắng ấm, nhiệt độ tăng trở lại sẽ phân hủy nhanh tạo nên khí độc ảnh hưởng đến tôm. Sau mỗi đợt lạnh kéo dài lại là lúc trời nắng, nhiệt độ nước ao nuôi tăng, tảo phát triển mạnh làm tăng độ pH, tăng sự hình thành NH3 gây hại đối với tôm. Đây là cơ hội để vi khuẩn gây bệnh bùng phát nhanh chóng, làm cho tôm dễ dàng bị nhiễm bệnh đốm trắng, phân trắng… có thể chết hàng loạt. Do đó, nếu đã thả nuôi hoặc có kế hoạch chuẩn bị nuôi trong thời tiết bất lợi như hiện nay, nông dân cần có biện pháp quản lý, xử lý phù hợp.
Về chuẩn bị ao nuôi, nông dân cần cải tạo và vệ sinh. Lưu ý, thời gian phơi đáy ao cần dài hơn do trời ít nắng. Không lấy nước vào ao nuôi trong những ngày gió mùa. Nếu cần, nên lấy vào ao lắng trong 3 - 5 ngày để ổn định môi trường, sau đó mới cấp vào ao nuôi.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nuôi tôm giai đoạn đầu khi nhiệt độ thấp là thiết kế ương tôm trong hồ, ao nhỏ trải bạt với diện tích 50 - 200m2 trong nhà lán, quây kín bằng nylon, lắp đặt hệ thống sục khí 24/24 giờ nhằm ổn định nhiệt độ cùng các yếu tố khác trong ngưỡng cho phép và xi phông đáy hằng ngày. Thả tôm mật độ ương tôm thẻ chân trắng 800 - 1.000 con/m3 nước. Tiến hành ương tôm khoảng 20 - 25 ngày, sau đó chuyển ra ao để nuôi tiếp. Biện pháp này vừa giảm được hao hụt vừa hạn chế dịch bệnh chết sớm trên tôm. Nếu trường hợp tôm bị bệnh thì cần loại bỏ và vệ sinh nhanh chóng ao, bể để ương lứa mới, tiết kiệm được nhân lực, thời gian và chi phí.
Về biện pháp thả giống, trước khi thả 30 phút nên chạy máy quạt khí để tăng cường oxy hòa tan và nhiệt độ được đảo đều giữa các tầng nước ao, tránh tôm bị sốc nhiệt. Cần chọn thời điểm thả có nhiệt độ nước ấm nhất trong ngày. Ngâm bao tôm trong nước 15 phút trước khi thả. Ao, bể ương tôm trong nhà bạt khi chuyển tôm ra ao nuôi cần chọn ngày nắng ấm, tránh gió mùa. Chỉ thả giống khi nhiệt độ thực sự ổn định, không thả khi đang mùa gió lạnh tràn về. Nhiệt độ nước cần được trại giống thuần cho đúng nhiệt độ môi trường trước khi thả.

Tôm sau 20 ngày thả nuôi. Ảnh: THÚY NGA
Đối với thức ăn cho tôm, cần cho ăn đúng lượng và đủ chất. Khi nhiệt độ giảm 2oC thì cần giảm 30 - 50% lượng thức ăn hằng ngày do lạnh làm tôm giảm ăn. Khi nhiệt độ ổn định lại, cần theo dõi khả năng bắt mồi để điều chỉnh cho phù hợp. Giảm và kiểm soát chặt chẽ lượng thức ăn đưa vào ao nuôi, không để dư thừa ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước. Bổ sung thêm các chất hỗ trợ như vitamin C, men tiêu hóa, khoáng chất, bổ gan định kỳ nhằm tăng sức đề kháng cũng như hấp thu của tôm. Sau mỗi đợt lạnh, trời chuyển nắng, nhiệt độ nước tăng, người nuôi chưa nên tăng ngay lượng thức ăn cho tôm, thay vào đó cần thay nước, diệt khuẩn và cấy lại men vi sinh. Tăng từ từ lượng thức ăn theo sức ăn của tôm, tránh dư thừa gây ô nhiễm môi trường nước ao.
Trong quá trình nuôi, cần kiểm tra hoạt động của tôm và môi trường nước thường xuyên, trong đó cần kiểm tra hình dạng sắc thái bên ngoài, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong sàn. Bên cạnh đó, cần kiểm tra độ pH, độ kiềm, độ trong, độ mặn, khí độc... Theo dõi thường xuyên các yếu tố môi trường nước trong ao để điều chỉnh cho thích hợp như: pH từ 7,5 - 8,5; độ kiềm từ 100 - 150 mg/L; độ trong 20 - 30cm, oxy hòa tan lớn hơn hoặc bằng 6mg/L; nhiệt độ từ 28 - 32OC; NO2 nhỏ hơn 0,05mg/L; NH3 nhỏ hơn 0,3mg/L…
Lưu ý, người nuôi cần thường xuyên theo dõi kết quả quan trắc vì môi trường nước ao nuôi được xem là yếu tố rất quan trọng trong nuôi tôm. Theo dõi diễn biến tình hình thời tiết, chất lượng môi trường nước quan trắc trước khi thả giống. Khi các yếu tố môi trường biến động, cần điều chỉnh kịp thời để hạn chế tối đa gây sốc cho tôm nuôi. Khi các khí độc NH3, NO2 tăng cao, cần sử dụng chế phẩm sinh học xử lý; tăng cường bổ sung vitamin, khoáng chất, giải độc gan và men vi sinh đường ruột vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm nuôi. Ngoài ra, người nuôi tôm cần áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Nên thả tôm với mật độ phù hợp và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào quá trình nuôi phù hợp với điều kiện của từng vùng.
NGUYỄN THỊ THÚY NGA