Mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân, phường Ghềnh Ráng, thành phố Quy Nhơn (Bình Định)
Tuy vậy, nếu chỉ thăm mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân, chúng ta sẽ không thể hiểu hết về cuộc sống và sự nghiệp thi ca của ông, nhất là quãng thời gian ngắn ngủi ông điều trị bệnh tại Bệnh viện phong Quy Hòa (còn gọi là Trại phong Quy Hòa) trong giáo xứ Quy Hòa, thành phố Quy Nhơn.
Bình Định trời văn
Thật tình cờ khi ghé thăm Tháp Đôi nằm ở trung tâm thành phố Quy Nhơn, tôi bắt gặp tại đó những băng-rôn, khẩu hiệu chưa được tháo xuống của Hội thơ Nguyên tiêu Bình Định năm 2023 nhân Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 21 và hình ảnh những nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc như Đào Tấn, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan…
Chẳng có gì lạ khi bên cạnh tam kiệt Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng nhiều danh tướng Tây Sơn, để Bình Định xứng đáng được gọi là đất võ, họ là lý do để Bình Định còn được gọi là trời văn. Điều khiến tôi muốn tìm hiểu thêm về Hàn Mặc Tử không chỉ vì mộ ông trên đồi Thi Nhân luôn là điểm đến không thể bỏ qua của hầu hết du khách khi tới Quy Nhơn mà còn vì ông là thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh và vì ông được chôn cất ở Quy Nhơn dù sinh ra tại Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Thay vì như nhiều người thường làm là ghé thăm đồi Thi Nhân và thắp hương tưởng nhớ nhà thơ, tôi quyết định đến Trại phong Quy Hòa. Quy Nhơn một ngày trước còn nắng nóng, trời trong xanh thì hôm đấy đổ mưa như trút nước, mưa suốt từ đường Hàn Mặc Tử dẫn lên con đèo ngắn đâm ra Quốc lộ 1D.
Trong cuốn sách đầu tiên viết về Hàn Mặc Tử sau khi nhà thơ mất có tên Hàn Mặc Tử vào năm 1941, nhà phê bình văn học Trần Thanh Mại có viết: “Thành phố Quy Nhơn có thể ví như một vành móng ngựa nằm lọt giữa ba mặt núi vây quanh của dãy Trường Sơn. Mặt nước là bể.
Quy Hòa nằm ở mút đầu phía bên mặt. Đứng ở Quy Nhơn, trông ra xa, thăm thẳm mù mù, người ta có thể thấy mầu đỏ của mái ngói nhà thương phung (phung là bệnh phong). Người ta đến đấy do một con đường đèo cao chót vót: qua hết đèo là xuống một thung lũng rộng, toàn trồng thứ dừa Bình Định, thân cao và rất sai trái, nó đã cho chỗ đất ấy một cái tên dã rất nên thơ: Vũng dừa…”.
Đó là những câu mở đầu trong phần viết về Quy Nhơn và Trại phong Quy Hòa ở cuốn Hàn Mặc Tử, còn sau khi gõ địa chỉ Trại phong Quy Hòa nhưng Google Maps chỉ hiện ra Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa, tôi đành vượt qua dốc Quy Hòa tới đó thì được biết, đây không phải là nơi tôi cần tìm. Đành trở ngược ra Quốc lộ 1D.
Một người dân đã chỉ cho tôi con dốc khác theo chiều ngược lại. Đi thêm một đoạn nữa, ngay đầu dốc là tấm biển ghi Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa cơ sở 1. Tôi phải lượn qua rất nhiều khúc cua tay áo để rồi dừng chân trước bức tượng bán thân A.Hansen (1841-1912), bác sĩ người Na Uy được tôn vinh với công trình khám phá vi khuẩn gây bệnh phong, đặt bên ngoài cổng bệnh viện.
Trời đã tạnh, tôi đi sâu hơn vào bên trong Trại phong Quy Hòa. Nhìn từ phía bờ biển vào, Vườn tượng danh nhân y học nổi lên trắng sáng. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội, nhân đạo vì bệnh nhân phong, với 54 bức tượng bán thân được xếp theo vòng tròn.
Cách không xa là tượng đài nhỏ diễn tả nỗi đau và sự vươn lên của bệnh nhân phong cùng dòng chữ khắc trên đó “Nỗi đau khổ của người mắc bệnh phong sẽ đi về dĩ vãng”; tượng Marie de la Passion, người sáng lập dòng Phan sinh Thừa sai Đức Mẹ.
Tiếp đó là tấm bia đá khắc bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ngành y tế ngày 27/2/1955. Con đường này dẫn tôi đến Tu viện Phan sinh Thừa sai Đức Mẹ, nhà thờ St Francis of Assisi, những ngôi nhà nhỏ với kiểu dáng kiến trúc đơn giản rồi tới Phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mặc Tử, nơi ông nằm chữa bệnh từ ngày 30/10 và mất ngày 11/11/1940. Căn phòng nhỏ nằm đầu dãy nhà cấp 4 mái ngói, mở cửa tự do, bên trong treo rất nhiều khung hình là các bài thơ, hình ảnh, câu nói về thi sĩ. Tấm bảng gỗ treo ngay trên bức tượng bán thân của ông khắc dòng chữ “…
Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử” của nhà thơ Chế Lan Viên, trích trong “Những kỷ niệm về Hàn Mặc Tử” đăng trên báo Người Mới số 5 ra ngày 23/11/1940.
Tiếc là phòng lưu niệm này không nằm gần mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân, nếu không đã tạo thành một tour du lịch khép kín, để du khách tới đó có thể hiểu rõ hơn cuộc đời, sự nghiệp thi ca của ông. Nếu chỉ dừng chân ở đồi Thi Nhân thôi, sẽ không biết được nơi an táng đầu tiên của Hàn Mặc Tử khi ông qua đời ở tuổi 28 nhưng đã dự cảm được cái chết của mình trong nhiều vần thơ. Chẳng hạn như bài Trút linh hồn với những câu thơ như Máu đã khô rồi thơ cũng khô/Tình ta chết yểu tự bao giờ!/Từ nay trong gió, trong mây gió/Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ…
Nhiều cảm xúc đan xen khi tôi ghé qua nơi an táng đầu tiên của Hàn Mặc Tử cách không xa Vườn tượng danh nhân y học. Trong cuốn Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1941, Trần Thanh Mại viết: “Mộ Hàn Mặc Tử chỉ có một chiếc thập tự làm bằng hai que củi đóng một cái đinh ở giữa. Mười tháng sau khi thi sĩ mất, chiếc thánh giá đỡ đầu cho mộ chàng đã sụp đổ…”.
Ông đã nằm ở đây 19 năm, trước khi được gia đình và người bạn, nhà thơ Quách Tấn cải táng về đồi Thi Nhân vào năm 1959. Trên mộ cũ của ông, ca sĩ Nhật Trường (tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh) và một số văn nghệ sĩ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1985 đã dựng đài tưởng niệm hình cây bút, quyển sách để thương tiếc, tưởng nhớ một tài năng bạc mệnh.
Để thơ Hàn cháy đỏ
Từ Trại phong Quy Hòa ra, tôi phải vượt qua hai con dốc với nhiều khúc cua gấp. Còn từ cổng Khu di tích Ghềnh Ráng để lên đồi Thi Nhân còn có dốc Mộng Cầm được đặt theo tên một trong những nàng thơ của Hàn Mặc Tử. Qua dốc Mộng Cầm và đường lên là những bậc tam cấp bằng đá, với hai hàng cau cao phủ bóng mát, là khuôn viên mộ Hàn Mặc Tử.
Ngôi mộ được thiết kế đơn giản, với những biểu tượng của Công giáo do nhà thơ theo đạo, không gian rất thoáng, tạo cảm giác dễ chịu, gần gũi. Khách du lịch từ khắp nơi tham quan khá đông. Một phần, họ tới đây thăm mộ Hàn Mặc Tử, phần vì muốn ghé bãi tắm Hoàng Hậu (còn gọi là bãi Trứng) vì có nhiều hòn đá tròn, nhẵn như trứng chim khổng lồ nằm xếp chồng lên nhau. Tương truyền, trong những lần theo Vua Bảo Đại đi kinh lý các tỉnh miền trung, Nam Phương Hoàng hậu đã chọn nơi đây là bãi tắm cho riêng mình, nên bãi tắm có tên Hoàng Hậu từ đấy.
Gần đó, có con đường khác dẫn tới lều thơ của Dzũ Kha, người đã hơn 40 năm gắn bó, gìn giữ và truyền bá thơ Hàn Mặc Tử. Trong cuốn Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu phê bình văn học Trần Thanh Mại từng viết về việc Hàn Mặc Tử khi mất không được ai để ý, quan tâm (“Đám đưa đơn sơ lắm. Người nhà Hàn Mặc Tử không ai hay biết gì hết. Chỉ có một ông chức việc, hai người sĩ và người bạn không rời là Nguyễn Văn Xê đi theo” - trích trong Hàn Mặc Tử) nhưng rồi chính ông cũng dự báo “Hàn Mặc Tử “phục sinh” trong trí nhớ những người hâm mộ thơ chàng”.
Khi đến Ghềnh Ráng, tôi nghĩ mình sẽ không gặp được Dzũ Kha vì không hẹn trước, nhưng khi gặp được ông bên Vườn thơ Hàn Mặc Tử, nhìn ông chăm chút khu vườn, nghe ông đọc thơ và kể về tiểu sử thi sĩ, tôi đã hiểu được vì sao ông đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với Ghềnh Ráng, với nơi yên nghỉ của Hàn Mặc Tử, dùng cây bút lửa chép thơ Hàn, hằng năm tổ chức sinh nhật cho thi sĩ như thể thi sĩ vẫn còn hiện diện đâu đây.
Không có gì ngạc nhiên khi bên mộ Hàn Mặc Tử là tấm bảng in bài thơ của Dzũ Kha có tiêu đề “Tôi nguyện giữ lửa thơ Hàn”, với những câu như Đam mê từ sáng đến chiều/Dzũ Kha bút lửa nâng niu thơ Hàn/Đông về, Thu lại, Xuân sang/Cùng ai với ánh trăng vàng biển khơi/Thỏa lòng đổi tót cuộc chơi/Chỉ mong tìm lấy một đời thường thôi.
Hơn 80 năm qua, kể từ khi Hàn Mặc Tử đi vào cõi mộng, thơ ông vẫn đồng hành cùng văn chương Việt Nam, vẫn được ngâm lên, đọc lên từ những tâm hồn đồng điệu, những người yêu mến ông. Tại Ghềnh Ráng, mộ ông đã có hàng trăm nghìn người ghé thăm. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên trong lời tựa cho Tuyển tập Hàn Mặc Tử (Nhà xuất bản Văn học, 1987) thì “…
Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
Ghềnh Ráng cuối chiều, khi tôi rời khỏi đó, trời bỗng sáng, trong xanh đến lạ thường.
Theo MẠNH HÀO (Nhân dân)