Ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng học việc, làm thợ ở nhiều nơi. Năm 1912, ông tổ chức cuộc bãi khóa của học sinh Trường Cơ khí Á Châu. Tháng 3/1915, ông vào học Trường Bá Nghệ Sài Gòn. Giữa năm 1916, bị động viên làm lính thợ. Tháng 9/1916, ông được điều tới quân cảng Toulon, làm thợ máy trên chiến hạm France.
Điều đặc sắc, rất đáng ghi nhớ trong cuộc đời Tôn Đức Thắng là tháng 4/1919, chiến hạm France đến hải cảng Odessa, chuẩn bị tấn công Sevastopol. Tại đây, một ủy ban cách mạng bắt liên lạc với thủy thủ Pháp. Tôn Đức Thắng đã biết lựa chọn chỗ đứng chính trị làm vinh dự cho giai cấp công nhân Việt Nam, cho cả dân tộc Việt Nam. Chỗ đứng chính trị đó là hành động kéo cờ đỏ tham gia phản đối chiến tranh của liên quân các đế quốc. Lá cờ đỏ từ tay Tôn Đức Thắng kéo lên, vút cao trên cột cờ chiến hạm, phất phới tung bay trong nắng sớm!
Sau đó, cuộc nổi dậy nhanh chóng lan ra trên tất cả tàu chiến của Pháp. Cuộc phản chiến thắng lợi, Chính phủ Pháp buộc phải rút toàn bộ hạm đội về nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Đó là một hành động mà lúc bây giờ được xem là hiếm có, hơn thế nữa, là một hành động xuất chúng”.
Quan trọng hơn, hành động lịch sử đó diễn ra lúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở trong nước đang đắm chìm trong khủng hoảng về đường lối. Vì thế, cùng với những hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc, sự kiện Tôn Đức Thắng tham gia cuộc khởi nghĩa Biển Đen mở ra hướng đi đúng, “hướng của danh dự, hướng của thành công”.
Những vật dụng sinh hoạt bình dị của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Ảnh: N.C
Năm 1920, trở lại Sài Gòn, Tôn Đức Thắng vận động những người có cùng chí hướng thành lập Công hội đỏ - Công hội bí mật đầu tiên ở Việt Nam, do ông làm Hội trưởng. Từ đây, phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son (tháng 8/1925).
Năm 1926, Tôn Đức Thắng tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng; năm 1927, được bầu vào Kỳ bộ Nam kỳ; cuối năm 1929, bị thực dân Pháp bắt giam. Trong ngục tù đế quốc, hình ảnh “người cặp rằn hầm xay lúa” Tôn Đức Thắng là tấm gương sáng ngời về đức hy sinh, thương yêu đồng chí, anh em cùng cảnh ngộ.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ngay khi trở về đất liền, Bác Tôn đã tham gia Xứ ủy, được phân công phụ trách Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Cuối tháng 2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định điều Bác Tôn ra công tác tại Hà Nội. Từ ấy, Bác Tôn luôn bên cạnh Bác Hồ và Trung ương. Kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bác Tôn luôn hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục sự Nhân dân, không màng danh lợi.
Bác sống cuộc đời hết sức bình dị, trọn vẹn nghĩa tình. Có lần, các đồng chí miền Nam đến nhà riêng thăm, thấy Bác mặc chiếc áo ấm cũ nối thêm một đoạn, đã hỏi: “Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo nối thế này ?”. Bác vui vẻ trả lời: “Chủ tịch mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”. Tổng Bí thư Lê Duẩn nhấn mạnh: “Cùng với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ở đồng chí Tôn Đức Thắng còn nổi bật lên lập trường vững vàng, chí khí cao cả, đức tính khiêm tốn, giản dị, đó là những gương sáng để chúng ta học tập”.
Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn khác với những nhân vật khác ở chỗ, Cụ không có một tác phẩm nào cả… Có thể nói, tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một người hành động… Nhưng thực tế, Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều “tác phẩm’’ bằng hành động, bằng việc làm và những lời nói. Đó là những tác phẩm hay hơn nhiều những bài viết”.
Tương tự, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cho rằng: “Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong... Bác Tôn luôn luôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại. Không phải dễ thành bất tử như Bác Tôn - Uỷ viên Trung ương Đảng nhiều năm, đứng đầu Mặt trận đoàn kết dân tộc hàng mấy thập niên liền, thay Bác Hồ giữ cương vị Chủ tịch nước - nhưng chưa một lần Bác tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ… Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người, coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp, khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay”.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tổng kết rất sâu sắc: “Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người”. Tôn Đức Thắng, một con người bình thường nhưng rất phi thường!.
TRUNG THÀNH