Ông Nguyễn Văn Biếu chỉ phần đất đang ở
Ông Nguyễn Văn Biếu (sinh năm 1958, ngụ phường Bình Đức, TP. Long Xuyên) cho biết, vợ chồng ông kết hôn từ năm 1978. Lúc đầu, cuộc sống gia đình khó khăn, nhưng nhờ chịu khó lao động, ông đào hầm nuôi cá, mua đất, cộng với buôn bán ở chợ Mỹ Long nên kinh tế gia đình từng bước đi lên. Gia đình ông lần lượt sở hữu 2 căn nhà (tọa lạc số 16 và số 20, đường Nguyễn Đình Chiểu, phường Mỹ Long), trị giá hàng chục tỷ đồng, cùng số tiền 500 triệu đồng gửi ngân hàng.
Tuy nhiên, sống chung nhau đến khi có cháu ngoại, gia đình ông xảy ra nhiều mâu thuẫn khó tháo gỡ. Không còn hạnh phúc, ông quyết định ly hôn với người vợ N.T.H.Đ. Vợ chồng ông tạo ra nhiều tỷ đồng, nhưng từ lâu ông mang nhiều chứng bệnh, bản thân không thể tự tạo ra thu nhập, nên ông yêu cầu tòa án sớm giải quyết vụ án dân sự. Cụ thể, ông nhận nhà đất ở số 16 đường Nguyễn Đình Chiểu (trên 1,1 tỷ đồng), cùng gần 2.000m2 đất vườn (nhà nước định giá 586 triệu đồng). Riêng số tiền 500 triệu đồng gửi ngân hàng, ông nhận 250 triệu đồng. 2 con gái đã trưởng thành, tự lập được, không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết chia tài sản. Từ năm 2016, ông đã làm đơn yêu cầu tòa án xem xét cho ly hôn, phân chia tài sản, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết.
Phản hồi sự việc, bà N.T.H.Đ (sinh năm 1955) cho biết, dù ông Nguyễn Văn Biếu yêu cầu ly hôn, nhưng bà và 2 con gái không để ông gặp bức bách trong cuộc sống. Trong tạo lập tài sản của vợ chồng, có công sức đóng góp đáng kể của 2 con. Ông Biếu không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết, nhưng bà yêu cầu tòa án chấp nhận phân chia tài sản của gia đình thành 4 phần, trong đó có 2 con gái. Về phần nhà đất địa chỉ số 20 đường Nguyễn Đình Chiểu, có công đóng góp của cha mẹ bà, tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng bà sở hữu nó. Bà Đ. yêu cầu được nhận toàn bộ tài sản bằng hiện vật, sẽ thối lại 3 tỷ đồng cho ông Biếu. Đồng thời, bà khẳng định nhà đất số 16 và 20 đường Nguyễn Đình Chiểu cùng 2.000m2 đất vườn (tọa lạc tổ 32, khóm Bình Đức 6, phường Bình Đức) không thế chấp cho tổ chức tín dụng hay ngân hàng nào.
Qua tìm hiểu sự việc cho thấy, ngày 2/7/2018, Tòa án nhân dân TP. Long Xuyên thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình số 501/2018/TLST-HNG về việc “Tranh chấp ly hôn và chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân” giữa ông Nguyễn Văn Biếu với bà N.T.H.Đ. Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, thực hiện các bước theo quy định, tiến hành hòa giải, nhưng hòa giải không thành. Sau 2 lần hoãn phiên tòa do có chứng cứ mới, vắng mặt của luật sư bị đơn, hiện nay tòa án tiếp tục xem xét, giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.
Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, quy định: Việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung được hiểu là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình, mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. Việc chia đôi tài sản chung khi ly hôn là quyền lợi của mỗi người được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình.
ThS. Nguyễn Hồng Hoai (Trung tâm tư vấn pháp luật - Hội Luật gia tỉnh) cho biết, theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng tính đến hoàn cảnh của gia đình vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp, để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng… Tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản, thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Luật khuyến khích tài sản do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
N.R