Trước đó, khi khám tại Singapore, thai phụ được chẩn đoán thai nhi bị không lỗ van động mạch chủ – một dị tật hiếm gặp. Do chưa đủ điều kiện kỹ thuật, các bác sĩ Singapore đã giới thiệu sản phụ sang Việt Nam điều trị.
Theo Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, việc Singapore giới thiệu bệnh nhân sang Việt Nam điều trị không chỉ thể hiện niềm tin vào năng lực chuyên môn, mà còn cho thấy sự ghi nhận của ASEAN đối với trình độ y học bào thai của Việt Nam. Trong bối cảnh du lịch y tế đang tăng trưởng mạnh, đây là tín hiệu tích cực, góp phần nâng tầm vị thế Việt Nam trên bản đồ du lịch y tế khu vực.
Xây dựng và định hình thương hiệu
Du lịch y tế (medical tourism) là hoạt động khám, chữa bệnh phẫu thuật, điều trị y khoa, kết hợp du lịch. Tại châu Á, hình thức du lịch này đang nổi lên như một lĩnh vực phát triển đầy tiềm năng, đặc biệt tại các quốc gia như: Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ và Malaysia. Không nằm ngoài xu thế, trong khoảng 5 năm trở lại đây, Việt Nam cũng đang đầu tư phát triển các sản phẩm, dịch vụ hướng đến xây dựng và định hình thương hiệu Việt Nam trên bản đồ du lịch y tế khu vực và thế giới.
Nhiều tour du lịch kết hợp khám chữa bệnh được xây dựng như: Tour "Sống khỏe mỗi ngày" kết hợp khám tổng quát – trị liệu cổ truyền – du lịch sinh thái Cần Giờ; Tour “Nụ cười Việt Nam” kết hợp dịch vụ nha khoa và ẩm thực truyền thống; Tour “Sắc đẹp Á Đông” gồm các hoạt động phẫu thuật thẩm mỹ, nghỉ dưỡng và phục hồi sức khỏe hậu phẫu.
Ngoài ra, còn có các tour phục vụ khách du lịch có nhu cầu khám, tư vấn và chăm sóc sức khỏe tổng quát như khám sức khỏe định kỳ (tổng quát, chuyên sâu); tư vấn dinh dưỡng, lối sống lành mạnh; tầm soát bệnh lý (ung thư, tim mạch, tiểu đường…), các chương trình khám chuyên biệt theo độ tuổi, giới tính và nhu cầu (dành cho người cao tuổi, phụ nữ, doanh nhân).
Hiện, Thành phố Hồ Chí Minh đang giữ vai trò đầu tàu trong lĩnh vực du lịch y tế của cả nước, chiếm hơn 40% thị phần. Lợi thế đến từ hạ tầng y tế hiện đại, dịch vụ đa dạng và năng lực chuyên môn cao của các cơ sở khám, chữa bệnh. Với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, Thành phố Hồ Chí Minh đủ khả năng tiếp nhận và phục vụ du khách có nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh kết hợp nghỉ dưỡng.
Nguồn doanh thu “tỷ USD”
Theo nghiên cứu của Công ty Grand View Research, du lịch y tế đang phát triển nhanh chóng, dự báo đến năm 2030 doanh thu du lịch y tế trên toàn cầu sẽ lên đến gần 100 tỷ USD. Thời gian qua, một số quốc gia châu Á (Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia…) đã đẩy mạnh khai thác loại hình du lịch này qua đó đón du khách Mỹ và các nước châu Âu.
Năm 2023-2024, du lịch Thái Lan đón hơn 3 triệu lượt khách chữa bệnh, tạo doanh thu hơn 850 triệu USD (năm 2023), Singapore đặt mục tiêu 1 triệu bệnh nhân với doanh thu 3 tỷ USD mỗi năm. Năm 2023, Ấn Độ đón 2 triệu bệnh nhân quốc tế, doanh thu khoảng 6 tỷ USD; dự kiến Ấn Độ sẽ nâng doanh thu từ du lịch y tế lên mức 13 tỷ USD vào năm 2026
Theo khảo sát của Tổ chức Du lịch sức khỏe thế giới (Wellness Tourism Association), 76% người được hỏi cho biết sẵn sàng chi nhiều hơn cho các chuyến du lịch cải thiện sức khỏe và 55% số người sẽ trả thêm tiền cho các dịch vụ hoặc hoạt động trị liệu về tâm lý. Qua đó, có thể thấy được, nhu cầu trải nghiệm các sản phẩm phục vụ chăm sóc sức khỏe của du khách ngày càng tăng cao.
Hiện nay, so với các quốc gia trong khu vực, dịch vụ y tế Việt Nam có giá cả phải chăng, hệ thống y tế được đầu tư, đội ngũ y bác sĩ tay nghề cao giúp thu hút du khách quốc tế, đặc biệt là Việt kiều. Tại Việt Nam, loại hình du lịch nghỉ dưỡng kết hợp khám chữa bệnh được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển, có thể đạt doanh thu mỗi năm khoảng 2 tỷ USD.
Chị Nguyễn Kiều Liên (người Việt sinh sống tại Thụy Điển) định kỳ hằng năm về Việt Nam 2 lần vào dịp Giáng sinh và hè. Lần nào về, cả gia đình của chị Kiều Liên đều dành thời gian để đến gặp nha sĩ. “Dịch vụ nha khoa của Việt Nam rẻ hơn châu Âu rất nhiều. Ví dụ, trong việc chữa răng sâu, bọc răng sứ, tại Việt Nam chỉ mất khoảng 2 tuần với chi phí từ 300-500 USD. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia châu Âu, dịch vụ tương tự nhưng bệnh nhân phải chờ từ 2–4 tháng, chi phí lên đến vài nghìn USD”, chị Kiều Liên chia sẻ.
Bác sỹ Chuyên khoa II Nguyễn Minh Đức, Giám đốc Bệnh viện Răng hàm mặt Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách quốc tế, Bệnh viện đã dành riêng một khu điều trị nha khoa có thể phục vụ đồng thời 20 bệnh nhân. Các nha sĩ tại đây ngoài trình độ chuyên môn còn có khả năng ngoại ngữ tốt. Đồng thời, bệnh viện đầu tư nhiều trang thiết bị máy móc hiện đại 3D, 4D để phục vụ nhanh nhất việc lấy dấu, lên khuôn răng cho ra mẫu sản phẩm răng đạt đến 99,9%, đảm bảo việc lắp răng không cần chỉnh sửa nhiều. Phục vụ cho du lịch y tế về nha khoa, các cơ sở cần đảm bảo nhanh nhất, chính xác nhất, đẹp nhất và giá thành hợp lý, cạnh tranh được với khu vực và thế giới.
Hiện nay, các dịch vụ y tế được khách du lịch lựa chọn nhiều nhất khi đến Việt Nam là: Nha khoa, phẫu thuật thẩm mỹ, ghép tạng, phẫu thuật tim, phẫu thuật chỉnh hình, dịch vụ chăm sóc mắt; ngoài ra, dịch vụ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và các dịch vụ hỗ trợ sinh sản khác cũng là dịch vụ thu hút khách du lịch y tế sử dụng.
Theo chia sẻ của ông Nguyễn Tuấn Anh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Việt Nam, để phát triển các loại hình dịch vụ du lịch y tế, các đơn vị kinh doanh du lịch cần kết hợp với các bệnh viện cơ sở y tế để xây dựng hệ thống dịch vụ chăm sóc trọn gói, thân thiện với du khách quốc tế, cung cấp gói dịch vụ y tế trọn gói (khám – điều trị – nghỉ dưỡng – hậu điều trị). Du khách quốc tế cần có hướng dẫn viên y tế hoặc nhân viên hỗ trợ có ngoại ngữ (Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc…) và có các dịch vụ hỗ trợ thủ tục xin visa y tế, đặt vé máy bay, lưu trú, di chuyển trong nước. Ngoài ra, các cơ sở khám, lưu trú cho du khách cần lưu ý đến việc thiết kế không gian thân thiện, đảm bảo riêng tư, tiện nghi, phù hợp văn hóa quốc tế.
Để phục vụ khách quốc tế đến Việt Nam, các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh cần đầu tư bài bản, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đạt chuẩn quốc tế; chuẩn hóa quy trình khám, chữa bệnh (theo các tiêu chuẩn quốc tế JCI - Joint Commission International); ứng dụng công nghệ y khoa hiện đại, thiết bị tiên tiến, kỹ thuật mới. Đặc biệt, cần tăng cường đào tạo y bác sĩ cả về chuyên môn lẫn kỹ năng ngoại ngữ, giao tiếp đa văn hóa.
Thành công từ ca can thiệp tim bẩm sinh cho thai nhi người Singapore không chỉ khẳng định trình độ chuyên môn của y tế Việt Nam, còn mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch y tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Với lợi thế về chi phí, chất lượng tay nghề và dịch vụ y tế ngày càng tiệm cận chuẩn quốc tế, Việt Nam cần có sự liên kết chặt chẽ giữa ngành y tế - du lịch, cùng chính sách hỗ trợ từ các cơ quan chức năng để thúc đẩy du lịch y tế phát triển, mang đến nguồn khách và doanh thu cao cho ngành du lịch thời gian tới.