Tại sự kiện Ngày Internet Việt Nam năm 2021, đại diện Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) đã chia sẻ nhiều thông tin thú vị về chất lượng mạng Internet Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
Theo ông Nguyễn Phong Nhã - Phó Cục trưởng Cục Viễn thông (Bộ TT&TT), từ tháng 1/2020 đến tháng 10/2021, lưu lượng Internet Việt Nam đã tăng hơn 40%.
Tổng lưu lượng Internet băng rộng tại Việt Nam liên tục tăng trưởng trong 2 năm trở lại đây.
Cụ thể, tổng lưu lượng Internet băng rộng tháng 1/2020 của Việt Nam là hơn 4.955 Petabyte nhưng đến tháng 10/2021, con số này đã tăng tăng lên đến 6.977 Petabyte. Đại diện Cục Viễn thông cho hay, ở những thời điểm nhiều địa phương tiến hành giãn cách xã hội (tháng 8/2021), tổng lưu lượng băng thông Internet Việt Nam thậm chí đạt tới 7.824 Petabyte.
Tính đến tháng 10/2021, Việt Nam có hơn 18.8 triệu thuê bao Internet băng rộng cố dịnh. Trong đó, 95,34% là thuê bao cáp quang FTTH.
Xét về giá cước, Việt Nam là thị trường có giá cước Internet rẻ nhất thế giới. Số liệu thống kê năm 2020 cho thấy, Việt Nam đứng thứ 12/211 quốc gia về giá cước Internet băng rộng cố định.
Theo Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), đơn giá Internet cố định/bình quân thu nhập đầu người của Việt Nam ở mức thấp, bằng khoảng 41% so với mức trung bình của thế giới.
Đại diện Cục Viễn thông chia sẻ về chất lượng mạng Internet Việt Nam trong bối cảnh đại dịch. (Ảnh: Trọng Đạt)
Tính theo giá trị trung bình, tốc độ download/upload băng rộng cố định của Việt Nam đạt 84,12/74,42 Mbps, xếp hạng 58/181 quốc gia, được đánh giá ở mức độ khá. Tốc độ băng rộng cố định trung bình của thế giới là 116,86/64,73 Mbps.
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam kém Singapore (hạng 3/181), Thái Lan (8/181), Malaysia (46/181) nhưng tốt thơn Indonesia, Phillipines, Campuchia, Lào, Myanmar về tốc độ Internet băng rộng cố định.
Mức độ tăng trưởng tốc độ Internet băng rộng cố định trung vị của Việt Nam trong 12 tháng qua đạt 50%, tăng từ 42,07 Mbps lên thành 64,67 Mbps.
Đối với băng rộng di động, tính đến tháng 10/2021, Việt Nam có khoảng 71 triệu thuê bao băng rộng di động với 89,81% là hình thức trả trước, 10,19% trả sau. Trong đó, thuê bao mạng 5G chiếm 89,42% tổng thuê bao, thuê bao 3G chiếm 10,05% và thuê bao 5G chiếm 0,54%.
Phần lớn thuê bao di động Việt Nam là thuê bao 4G. Việc đẩy nhanh tốc độ triển khai 5G sẽ giúp tăng đáng kể tốc độ truy cập Internet di động trung bình tại Việt Nam.
Cũng giống như giá cước băng rộng cố định, Việt Nam là một trong số các quốc gia có giá cước truy nhập Internet di động rẻ nhất thế giới.
Theo thống kê của Cable.co.uk tại 155 quốc gia về giá cước truy cập Internet di động trung bình cho 1GB dữ liệu, Việt Nam thuộc nhóm rẻ nhất, xếp thứ 10 với 0,57 USD (khoảng 13.300 đồng)/GB. Thống kê của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) cho thấy, đơn giá Internet di động/bình quân thu nhập đầu người của Việt Nam ở mức rất thấp, bằng 1/3 so với trung bình của thế giới.
Tính theo giá trị trung bình, tốc độ download/upload của Việt Nam đạt 78,34/69,41 Mbps, xếp hạng 59/138 quốc gia. Thông số này đươc đánh giá xếp ở mức độ khá, so với thế giới là 113/62 Mbps.
Theo khảo sát của Ookla, tốc độ Internet di động của Việt Nam xếp thứ 59/138 quốc gia. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam được đánh giá cao hơn Phillipines (xếp vị trí 67), Malaysia (vị trí 77) nhưng thấp hơn Thái Lan (xếp thứ 36) và Singapore (xếp thứ 18) về tốc độ Internet di động.
Ông Nguyễn Phong Nhã – Phó Cục trưởng Cục Viễn thông (Bộ TT&TT). Ảnh: Trọng Đạt
Theo ông Nguyễn Phong Nhã, để nâng cao chất lượng Internet băng rộng cố định, trong thời gian tới, Việt Nam cần nâng cấp băng thông, nâng cao năng lực thiết bị moderm, mở rộng băng thông trong nước, quốc tế và sửa đổi một số quy chuẩn.
Đối với băng rộng di động, để nâng cao hơn nữa tốc độ Internet di động, chúng ta phải xem xét bổ sung thêm băng tần cho mạng 4G. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp viễn thông cần áp dụng thêm công nghệ mới, mở rộng quy mô thử nghiệm và đẩy nhanh việc thương mại hóa 5G.
Bộ TT&TT cũng khuyến khích việc tăng cường chia sẻ hạ tầng viễn thông di động dùng chung, ưu tiên bổ sung số lượng trạm 4G tại những địa bàn trọng yếu như TP.HCM và Hà Nội. Bộ sẽ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp khi phát triển hạ tầng trạm BTS.
Trong thời gian tới, Bộ TT&TT sẽ tăng cường việc đo kiểm, đánh giá định kỳ bằng trải nghiệm người dùng (QoE). Điều này được kỳ vọng tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà mạng viễn thông, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ.
Theo TRỌNG ĐẠT (Vietnamnet)